Học tập Bác Tôn - tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời!
- Được đăng: Thứ ba, 20 Tháng 8 2019 10:27
- Lượt xem: 3412
(TGAG)- Bác Tôn sinh ra ở cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên; sớm được nuôi dạy về lòng yêu nước, thương người... Năm 1907, Bác lên Sài Gòn học làm thợ máy, hòa mình vào cuộc sống của giai cấp công nhân. Trong hoàn cảnh mới, Bác càng hiểu sâu sắc những đau khổ mà người lao động bị áp bức, bóc lột phải gánh chịu. Bác nhanh chóng tham gia các cuộc bãi công, bãi khóa của công nhân Ba Son và học sinh trường Bá Nghệ; luôn đứng mũi chịu sào trong các cuộc đấu tranh.
Thời gian bị đọa đày ở “địa ngục trần gian” Côn Đảo, Người càng tỏ rõ bản lĩnh của một chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất; Bác tham gia thành lập Chi bộ đặc biệt, phụ trách đường dây liên lạc giữa Chi bộ và cơ sở đảng các banh, các sở tù, bảo đảm đường dây liên lạc với đất liền và các thủy thủ tàu viễn dương. Nhờ đó, Chi bộ vừa chuyển được thư từ, tài liệu từ đảo về Sài Gòn, vừa nhận được nhiều sách kinh điển của C.Mác, Ăngghen, Lê-nin và tài liệu của Đảng ta, biến nhà tù thành trường học. Khi ở Hầm xay lúa, Bác phân công mọi người làm việc theo điều kiện sức khỏe; tổ chức “Hội cứu tế tù nhân”... Bằng đạo đức cách mạng và trái tim nhân ái, Bác Tôn đã cảm hóa được nhiều tù nhân, làm bạn tù kính phục, kẻ thù phải kính nể.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác thoát khỏi lao tù, gông xiềng đế quốc. Vừa đặt chân đến đất liền thì cuộc kháng chiến bùng nổ, Bác tham gia ngay vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Trong vòng 35 năm (1945 - 1980), ở những cương vị quan trọng trong Ðảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, mặc dù tuổi cao, nhưng Bác luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của mình, cùng Trung ương Ðảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận lãnh đạo Nhân dân ta giành thắng lợi vẻ vang: Ðánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền nam thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bác Tôn là “người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Bác đã đem hết sức lực, nhiệt tình và trí tuệ của mình, cống hiến cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào việc thu hút trí, lực của toàn dân tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Bác luôn phấn đấu vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc; đóng góp to lớn trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới. Đứng trong hàng ngũ công nhân, Bác đã tham gia phản chiến ở Biển Đen, góp phần bảo vệ nước Nga Xô-viết; lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son, kéo dài thời gian sửa chữa tàu của Pháp đang trên đường sang đàn áp cách mạng Trung Quốc... Bác luôn phấn đấu cho sự phát triển tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa nhân dân ta với nhân dân Liên Xô, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và phát triển tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
Bác Tôn còn là một gương mẫu về lòng nhân ái, thủy chung, khoan dung, nhân hậu. Lúc tuổi nhỏ sống trong gia đình, Bác là người con hiếu thảo. Khi đi học, biết làm theo điều hay lẽ phải của thầy dạy. Đối với gia đình, vợ con, Bác là người chồng, người cha có trách nhiệm, rất mực yêu thương và thủy chung. Trong xưởng máy, Bác luôn luôn chăm sóc giúp đỡ bạn thợ gặp khó khăn. Đối với bạn cùng chiến đấu, Bác quan tâm chu đáo. Sống ở nước ngoài, Bác ngày đêm nghĩ về Tổ quốc, ra miền Bắc, luôn thương nhớ đồng bào miền nam.
Bác Tôn là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị. Bác là người thợ yêu lao động, lúc đã là lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhưng vẫn tự tay mình sửa xe đạp. Bác luôn ý thức tiết kiệm trong tiêu dùng, sinh hoạt, trong công tác; tiết kiệm tài sản của nhân dân, của đất nước, đồng thời tiết kiệm cho bạn bè quốc tế. Nhân dân ta mãi ghi nhớ hình ảnh một vị Chủ tịch nước mặc áo nối cho dân có đủ cơm ăn; về thăm quê với bộ quần áo bạc màu và yêu cầu hết sức hạn chế xe đưa, người đón vì “sợ hao phí tiền của và công sức của Nhà nước và nhân dân”. Bác sống liêm khiết, trong sạch, ngay thẳng, không tham quyền, cố vị, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Khi được Ủy ban giải thưởng hòa bình Quốc tế Lê-nin thưởng cho 100 ngàn rúp, Bác xin biếu cho nhân dân dùng vào công tác xã hội vì lợi ích chung. Khi Bác Tôn gái qua đời, Bác bảo hai cô con gái ra phố ở, để sau này khi Bác không làm việc nữa thì dễ trả nhà cho Chính phủ… Cuộc đời Bác Tôn “là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.
Hiện nay, như Đảng ta xác định: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn…”. Để góp phần khắc phục tình trạng đó mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần ra sức học tập tấm gương đạo đức Bác Tôn- người con ưu tú của quê hương An Giang và của dân tộc Việt Nam- người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
NGUYỄN THÀNH NHÂN
Trưởng phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng
____________________________
Bài đăng trên TTCTTT số 08/2019
Thời gian bị đọa đày ở “địa ngục trần gian” Côn Đảo, Người càng tỏ rõ bản lĩnh của một chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất; Bác tham gia thành lập Chi bộ đặc biệt, phụ trách đường dây liên lạc giữa Chi bộ và cơ sở đảng các banh, các sở tù, bảo đảm đường dây liên lạc với đất liền và các thủy thủ tàu viễn dương. Nhờ đó, Chi bộ vừa chuyển được thư từ, tài liệu từ đảo về Sài Gòn, vừa nhận được nhiều sách kinh điển của C.Mác, Ăngghen, Lê-nin và tài liệu của Đảng ta, biến nhà tù thành trường học. Khi ở Hầm xay lúa, Bác phân công mọi người làm việc theo điều kiện sức khỏe; tổ chức “Hội cứu tế tù nhân”... Bằng đạo đức cách mạng và trái tim nhân ái, Bác Tôn đã cảm hóa được nhiều tù nhân, làm bạn tù kính phục, kẻ thù phải kính nể.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác thoát khỏi lao tù, gông xiềng đế quốc. Vừa đặt chân đến đất liền thì cuộc kháng chiến bùng nổ, Bác tham gia ngay vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Trong vòng 35 năm (1945 - 1980), ở những cương vị quan trọng trong Ðảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, mặc dù tuổi cao, nhưng Bác luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của mình, cùng Trung ương Ðảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận lãnh đạo Nhân dân ta giành thắng lợi vẻ vang: Ðánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền nam thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bác Tôn là “người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Bác đã đem hết sức lực, nhiệt tình và trí tuệ của mình, cống hiến cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào việc thu hút trí, lực của toàn dân tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Bác luôn phấn đấu vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc; đóng góp to lớn trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới. Đứng trong hàng ngũ công nhân, Bác đã tham gia phản chiến ở Biển Đen, góp phần bảo vệ nước Nga Xô-viết; lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son, kéo dài thời gian sửa chữa tàu của Pháp đang trên đường sang đàn áp cách mạng Trung Quốc... Bác luôn phấn đấu cho sự phát triển tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa nhân dân ta với nhân dân Liên Xô, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và phát triển tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
Bác Tôn còn là một gương mẫu về lòng nhân ái, thủy chung, khoan dung, nhân hậu. Lúc tuổi nhỏ sống trong gia đình, Bác là người con hiếu thảo. Khi đi học, biết làm theo điều hay lẽ phải của thầy dạy. Đối với gia đình, vợ con, Bác là người chồng, người cha có trách nhiệm, rất mực yêu thương và thủy chung. Trong xưởng máy, Bác luôn luôn chăm sóc giúp đỡ bạn thợ gặp khó khăn. Đối với bạn cùng chiến đấu, Bác quan tâm chu đáo. Sống ở nước ngoài, Bác ngày đêm nghĩ về Tổ quốc, ra miền Bắc, luôn thương nhớ đồng bào miền nam.
Bác Tôn là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị. Bác là người thợ yêu lao động, lúc đã là lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhưng vẫn tự tay mình sửa xe đạp. Bác luôn ý thức tiết kiệm trong tiêu dùng, sinh hoạt, trong công tác; tiết kiệm tài sản của nhân dân, của đất nước, đồng thời tiết kiệm cho bạn bè quốc tế. Nhân dân ta mãi ghi nhớ hình ảnh một vị Chủ tịch nước mặc áo nối cho dân có đủ cơm ăn; về thăm quê với bộ quần áo bạc màu và yêu cầu hết sức hạn chế xe đưa, người đón vì “sợ hao phí tiền của và công sức của Nhà nước và nhân dân”. Bác sống liêm khiết, trong sạch, ngay thẳng, không tham quyền, cố vị, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Khi được Ủy ban giải thưởng hòa bình Quốc tế Lê-nin thưởng cho 100 ngàn rúp, Bác xin biếu cho nhân dân dùng vào công tác xã hội vì lợi ích chung. Khi Bác Tôn gái qua đời, Bác bảo hai cô con gái ra phố ở, để sau này khi Bác không làm việc nữa thì dễ trả nhà cho Chính phủ… Cuộc đời Bác Tôn “là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.
Hiện nay, như Đảng ta xác định: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn…”. Để góp phần khắc phục tình trạng đó mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần ra sức học tập tấm gương đạo đức Bác Tôn- người con ưu tú của quê hương An Giang và của dân tộc Việt Nam- người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
NGUYỄN THÀNH NHÂN
Trưởng phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng
____________________________
Bài đăng trên TTCTTT số 08/2019