Vài nét đặc sắc trong tục cưới hỏi của người Chăm ở An Giang
- Được đăng: Thứ năm, 07 Tháng 7 2016 15:10
- Lượt xem: 5024
(TGAG)- Hướng tới Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Chăm năm 2016 tại An Giang (từ 15 - 17/7/2016).
An Giang hiện có khoảng 14.000 người Chăm, sống tập trung ở 9 xóm thuộc các xã Khánh Hòa, Vĩnh Trường, Vĩnh Hanh, Phú Hiệp, Châu Phong, Khánh Bình, Nhơn Hội, Quốc Thái và Đa Phước. Người Chăm ở đây theo đạo Hồi giáo IsLam.
Tôi tìm đến làm quen với Giáo Cả (Ha-Kim) Musa Haji ở ấp Khánh An I, xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú, người có thâm niên gần 50 năm làm Giáo Cả. Một ông già trên tám mươi tuổi, gương mặt hiền từ, giọng nói chậm rải từ tốn và rõ ràng, cởi mở trao đổi với khách.
Giáo Cả Musa Haji cho biết, ngày nay đồng bào Chăm ở An Giang được quan tâm một cách đặc biệt, được hỗ trợ và tạo điều kiện để xoá đói giảm nghèo, được tự do hành lễ theo qui định Hồi giáo. Đồng bào còn được chính quyền địa phương và ngành chức năng giúp đỡ trong việc xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, có cả đội bóng đá, đội bóng chuyền, đội văn nghệ... Và nhất là, chính quyền đã tạo điều kiện đưa tiếng và chữ viết Chăm vào chương trình dạy song ngữ của trường tiểu học ở đây, giúp con em đồng bào Chăm được học tiếng và chữ viết của dân tộc mình.
Tôi đã từng đến một số Thánh đường Hồi giáo (gọi là Mas Jid), được xây dựng theo kiểu kiến trúc Mas Jid Mec Ca, là một căn phòng rộng, dài, nằm theo hướng Tây, cũng là hướng tín đồ nhìn về khi hành lễ (gọi là Ka’Bah). Ở phía Tây, vách thánh đường có một khoảng lõm vào được gọi là Mih Rab, bên phải có bục giảng (gọi là Min Bar) nơi để KhoTib đứng giảng cho tín đồ nghe về giáo luật bằng tiếng Chăm. Ở góc thánh đường có làm cái tháp cao, gọi là Manara để BiLal gióng chuông báo cho người Chăm trong vùng biết lúc hành lễ tại nhà, mỗi ngày năm lần như sau: SuBoh (rạng đông), ZuHur (trưa), Asar (chiều), Magh-Rib (hoàng hôn) và I-Sha (tối). Ngày thứ sáu hằng tuần thì lúc 12 giờ trưa, tất cả nam tín đồ trên 15 tuổi phải đến thánh đường (MasJid) để hành lễ (gọi là HaGay Lum At)
Những cô gái Chăm trong ngày cưới.
Hỏi về nghi thức lễ cưới của người Chăm, Giáo Cả Mu Sa Ha Ji vui vẻ cho tôi biết khá chi tiết: Trước khi muốn cưới vợ cho con, bên đàng trai cho một người thân tín đi qua đàng gái để ngỏ lời (tiếng Chăm gọi là MaHa Chi Chu), khi biết đàng gái đồng ý, thì cho một người đại diện đến chính thức xin cưới (MaHa). Đàng gái sẽ bàn bạc với bà con trong tộc họ để cho biết “tiền đồng” (Isa Kah Win) và “tiền chợ” (Ba Lan Ja) là bao nhiêu. Khi đàng trai đồng ý chịu “tiền đồng, tiền chợ” thì hai bên gặp mặt để thống nhất ngày đám nói (HaGay PaKLoh PaNauaik ). Ngày đám nói, hai bên họ tộc và chức sắc, bô lão được mời đến nhà đàng gái để dự tiệc. Đàng trai mang đến một mâm lớn trái cây và hoa cho đàng gái. Sau đám nói, các bạn chú rể đưa chú rể đến nhà đàng gái ra mắt cha mẹ, bà con họ tộc. Đêm sau, bạn cô dâu đưa cô dâu đến đàng trai để ra mắt. Sau đó, chú rể, cô dâu không được gặp mặt nói chuyện với nhau cho đến ngày đám cưới.
Trước ngày đám cưới, phụ nữ bên đàng trai mang đến đàng gái y phục cô dâu và tiền chợ chuẩn bị ngày cưới. Rồi quý ông bên đàng trai mang đến đàng gái một cái giường nằm và một cặp chiếu bông; ngày này được đồng bào Chăm gọi là Ha Gay Tong KaGe. Đàng gái sẽ trang hoàng phòng cô dâu.
Đêm trước ngày cưới của một cặp vợ chồng người Chăm, hai bên đàng trai, đàng gái đều có mời khách đến dự tiệc, đặc biệt bên đàng gái chỉ mời khách nữ, đàng trai chỉ mời khách nam, mà chỉ đãi bánh dân tộc, uống nước trà, ca hát đến khoảng 20 giờ là nghỉ. Sáng sớm hôm sau, hai bên đàng trai, đàng gái đều có tiệc cơm đãi khách mời (gọi là Tukkgưh). Giáo cả cho chúng tôi biết, người Chăm không ăn thịt heo, chó, mèo, rắn. Chỉ ăn bò, trâu, dê, cừu, gà, vịt… Nhưng phải được người trong đạo IsLam đọc kinh trước khi làm thịt thì người Chăm mới ăn.
Đến trưa hôm sau, bên đàng trai kết lộng hoa sặc sỡ cùng các vị bô lão và ba em bé trai, ăn mặc đẹp, tay các em có cầm khay –một khay đựng 2 lon gạo và 8 trái chuối, khai thứ hai đựng thuốc hút, trầu cau, vôi và khay thứ ba là các loại bánh dân tộc… cùng đưa chú rể đến thánh đường.
Đến thánh đường, chú rể được cho ngồi đối diện với cha vợ (làm chủ hôn). Hai bên cha vợ có 2 vị bô lão, người có uy tín được chọn lựa cẩn thận. Có một vị đọc kinh dạy bảo chú rể về bổn phận làm chồng đúng theo phong tục tập quán và giáo luật đạo Hồi và pháp luật Nhà nước.
Người cha vợ bắt tay anh con rể và nói: “Ta gã con ta tên…cho con với số tiền đồng là…” Chú rể kính cẩn đáp lại: “Tôi nhận cưới con ông tên là…với số tiền đồng là…” Sau đó, mọi người cầu nguyện cho cô dâu, chú rể mạnh khoẻ, may mắn và hạnh phúc.
Sau khi hành lễ, đám đông đưa chú rể đến nhà đàng gái. Đến nơi, có một người trong tộc họ đàng gái ra dẫn chú rể đến phòng cô dâu cùng với 3 em bé mang ba khay tròn. Cô dâu ngồi trên giường, ăn mặc trang điểm lộng lẫy, trên đầu có cài 3 cây trâm Su Jôk. Có hai cây trâm ngắn để cài hai bên, cây trâm dài cài ngay chính giữa. Chú rể bước đến đưa tay nhổ cây trâm dài ra để lên đùi cô dâu, rồi xoay người ngồi xếp bằng song song với cô dâu (gọi là Pa Dim). Cô Dâu, chú rể cùng mọi người cầu nguyện xin thượng đế ban nhiều phước lành. Chú rể thay chăn sà rông và áo do cô dâu tặng rồi bước ra ngoài tiếp khách, còn cô dâu ở trong buồng. Sau đó chú rể về nhà mình.
Đến gần 20 giờ, chú rể được đám đông thanh niên và phụ nữ đưa đến nhà cô dâu. Sẽ có một phụ nữ vào phòng cô dâu giăng mùng trên giường trong phòng cô dâu và ra mời chú rể vào phòng. Cô dâu chú rể sẽ bắt tay nhau, đặt tay lên nhau, để hai bàn tay trong một cái ô bằng đồng trong đó có để sẵn tiền đồng để hai người tranh nhau lấy, ai lấy được nhiều tiền sẽ giữ tiền sau này. Tiếp đến một mâm cơm sẽ đưa vào để vợ chồng cùng ăn với nhau. Mọi người ra về. Đêm tân hôn, người Chăm gọi là đêm “Ma Lâm Sam Tâm Nết “.
Giáo cả cho tôi biết thêm. Sau ba ngày, đàng trai đem vật dụng sinh hoạt của hai vợ chồng như: nồi niêu, soong chảo, chén… đến nhà đàng gái. Tất cả vui mừng, ăn tiệc bánh, uống trà. Đêm thứ tư, hai vợ chồng đi cùng vài người phụ nữ đến viếng nhà cha mẹ bên chồng. Cha mẹ và bà con bên chồng sẽ cho cô dâu chú rể tiền, vàng. Đêm thứ năm, hai vợ chồng cùng thăm viếng cha mẹ bà con bên cô dâu và cũng sẽ được nhận quà mừng của mọi người… Ngày nay, tùy theo hoàn cảnh mà người Chăm ở đây cũng bỏ bớt các nghi thức trong đám cưới…
Giờ đây, người Chăm An Giang đã có Ban đại diện Hồi giáo góp phần thắt chặt tình đoàn kết trong cộng đồng dân tộc, thống nhất thực hiện các tập tục mang đúng bản sắc văn hóa truyền thống của người Chăm theo đạo Hồi Is Lam. Hiện nay, các cấp chính quyền của tỉnh, huyện rất ủng hộ và tạo điều kiện để Ban đại diện hoạt động góp phần thúc đầy đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm ở An Giang ngày càng phát triển…
An Giang hiện có khoảng 14.000 người Chăm, sống tập trung ở 9 xóm thuộc các xã Khánh Hòa, Vĩnh Trường, Vĩnh Hanh, Phú Hiệp, Châu Phong, Khánh Bình, Nhơn Hội, Quốc Thái và Đa Phước. Người Chăm ở đây theo đạo Hồi giáo IsLam.
Giáo Cả Musa Haji cho biết, ngày nay đồng bào Chăm ở An Giang được quan tâm một cách đặc biệt, được hỗ trợ và tạo điều kiện để xoá đói giảm nghèo, được tự do hành lễ theo qui định Hồi giáo. Đồng bào còn được chính quyền địa phương và ngành chức năng giúp đỡ trong việc xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, có cả đội bóng đá, đội bóng chuyền, đội văn nghệ... Và nhất là, chính quyền đã tạo điều kiện đưa tiếng và chữ viết Chăm vào chương trình dạy song ngữ của trường tiểu học ở đây, giúp con em đồng bào Chăm được học tiếng và chữ viết của dân tộc mình.
Tôi đã từng đến một số Thánh đường Hồi giáo (gọi là Mas Jid), được xây dựng theo kiểu kiến trúc Mas Jid Mec Ca, là một căn phòng rộng, dài, nằm theo hướng Tây, cũng là hướng tín đồ nhìn về khi hành lễ (gọi là Ka’Bah). Ở phía Tây, vách thánh đường có một khoảng lõm vào được gọi là Mih Rab, bên phải có bục giảng (gọi là Min Bar) nơi để KhoTib đứng giảng cho tín đồ nghe về giáo luật bằng tiếng Chăm. Ở góc thánh đường có làm cái tháp cao, gọi là Manara để BiLal gióng chuông báo cho người Chăm trong vùng biết lúc hành lễ tại nhà, mỗi ngày năm lần như sau: SuBoh (rạng đông), ZuHur (trưa), Asar (chiều), Magh-Rib (hoàng hôn) và I-Sha (tối). Ngày thứ sáu hằng tuần thì lúc 12 giờ trưa, tất cả nam tín đồ trên 15 tuổi phải đến thánh đường (MasJid) để hành lễ (gọi là HaGay Lum At)
Những cô gái Chăm trong ngày cưới.
Trước ngày đám cưới, phụ nữ bên đàng trai mang đến đàng gái y phục cô dâu và tiền chợ chuẩn bị ngày cưới. Rồi quý ông bên đàng trai mang đến đàng gái một cái giường nằm và một cặp chiếu bông; ngày này được đồng bào Chăm gọi là Ha Gay Tong KaGe. Đàng gái sẽ trang hoàng phòng cô dâu.
Đêm trước ngày cưới của một cặp vợ chồng người Chăm, hai bên đàng trai, đàng gái đều có mời khách đến dự tiệc, đặc biệt bên đàng gái chỉ mời khách nữ, đàng trai chỉ mời khách nam, mà chỉ đãi bánh dân tộc, uống nước trà, ca hát đến khoảng 20 giờ là nghỉ. Sáng sớm hôm sau, hai bên đàng trai, đàng gái đều có tiệc cơm đãi khách mời (gọi là Tukkgưh). Giáo cả cho chúng tôi biết, người Chăm không ăn thịt heo, chó, mèo, rắn. Chỉ ăn bò, trâu, dê, cừu, gà, vịt… Nhưng phải được người trong đạo IsLam đọc kinh trước khi làm thịt thì người Chăm mới ăn.
Đến trưa hôm sau, bên đàng trai kết lộng hoa sặc sỡ cùng các vị bô lão và ba em bé trai, ăn mặc đẹp, tay các em có cầm khay –một khay đựng 2 lon gạo và 8 trái chuối, khai thứ hai đựng thuốc hút, trầu cau, vôi và khay thứ ba là các loại bánh dân tộc… cùng đưa chú rể đến thánh đường.
Đến thánh đường, chú rể được cho ngồi đối diện với cha vợ (làm chủ hôn). Hai bên cha vợ có 2 vị bô lão, người có uy tín được chọn lựa cẩn thận. Có một vị đọc kinh dạy bảo chú rể về bổn phận làm chồng đúng theo phong tục tập quán và giáo luật đạo Hồi và pháp luật Nhà nước.
Người cha vợ bắt tay anh con rể và nói: “Ta gã con ta tên…cho con với số tiền đồng là…” Chú rể kính cẩn đáp lại: “Tôi nhận cưới con ông tên là…với số tiền đồng là…” Sau đó, mọi người cầu nguyện cho cô dâu, chú rể mạnh khoẻ, may mắn và hạnh phúc.
Sau khi hành lễ, đám đông đưa chú rể đến nhà đàng gái. Đến nơi, có một người trong tộc họ đàng gái ra dẫn chú rể đến phòng cô dâu cùng với 3 em bé mang ba khay tròn. Cô dâu ngồi trên giường, ăn mặc trang điểm lộng lẫy, trên đầu có cài 3 cây trâm Su Jôk. Có hai cây trâm ngắn để cài hai bên, cây trâm dài cài ngay chính giữa. Chú rể bước đến đưa tay nhổ cây trâm dài ra để lên đùi cô dâu, rồi xoay người ngồi xếp bằng song song với cô dâu (gọi là Pa Dim). Cô Dâu, chú rể cùng mọi người cầu nguyện xin thượng đế ban nhiều phước lành. Chú rể thay chăn sà rông và áo do cô dâu tặng rồi bước ra ngoài tiếp khách, còn cô dâu ở trong buồng. Sau đó chú rể về nhà mình.
Đến gần 20 giờ, chú rể được đám đông thanh niên và phụ nữ đưa đến nhà cô dâu. Sẽ có một phụ nữ vào phòng cô dâu giăng mùng trên giường trong phòng cô dâu và ra mời chú rể vào phòng. Cô dâu chú rể sẽ bắt tay nhau, đặt tay lên nhau, để hai bàn tay trong một cái ô bằng đồng trong đó có để sẵn tiền đồng để hai người tranh nhau lấy, ai lấy được nhiều tiền sẽ giữ tiền sau này. Tiếp đến một mâm cơm sẽ đưa vào để vợ chồng cùng ăn với nhau. Mọi người ra về. Đêm tân hôn, người Chăm gọi là đêm “Ma Lâm Sam Tâm Nết “.
Giáo cả cho tôi biết thêm. Sau ba ngày, đàng trai đem vật dụng sinh hoạt của hai vợ chồng như: nồi niêu, soong chảo, chén… đến nhà đàng gái. Tất cả vui mừng, ăn tiệc bánh, uống trà. Đêm thứ tư, hai vợ chồng đi cùng vài người phụ nữ đến viếng nhà cha mẹ bên chồng. Cha mẹ và bà con bên chồng sẽ cho cô dâu chú rể tiền, vàng. Đêm thứ năm, hai vợ chồng cùng thăm viếng cha mẹ bà con bên cô dâu và cũng sẽ được nhận quà mừng của mọi người… Ngày nay, tùy theo hoàn cảnh mà người Chăm ở đây cũng bỏ bớt các nghi thức trong đám cưới…
Giờ đây, người Chăm An Giang đã có Ban đại diện Hồi giáo góp phần thắt chặt tình đoàn kết trong cộng đồng dân tộc, thống nhất thực hiện các tập tục mang đúng bản sắc văn hóa truyền thống của người Chăm theo đạo Hồi Is Lam. Hiện nay, các cấp chính quyền của tỉnh, huyện rất ủng hộ và tạo điều kiện để Ban đại diện hoạt động góp phần thúc đầy đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm ở An Giang ngày càng phát triển…
Nhà văn MAI BỬU MINH