Chiến lược của Nhật Bản đối với khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng
- Được đăng: Thứ ba, 23 Tháng 11 2021 19:52
- Lượt xem: 2371
(TUAG)- Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) là khu vực địa - kinh tế, địa - chính trị quan trọng ở Đông Nam Á, là điểm giao thoa lợi ích của nhiều cường quốc trên thế giới. Vì vậy, với sự biến đổi không ngừng của tình hình khu vực và thế giới, các nước lớn, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản, ngày càng mong muốn mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực, trong đó có khu vực GMS.
Với tầm quan trọng của khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản luôn tích cực và chủ động tham gia các cơ chế hợp tác do ASEAN khởi xướng. Vì vậy, từ khi GMS được thành lập (năm 1992), Nhật Bản đã chú trọng vào khu vực Mekong, điều này thể hiện ở hai điểm:
Một là, Nhật Bản mong muốn thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển. Khi sự thịnh vượng và ổn định ở châu Á phù hợp với lợi ích quốc gia của Nhật Bản, nước này đã chủ động gắn kết nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho khu vực Mekong với các hoạt động thương mại và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản.
Hai là, sự thay đổi trong chiến lược ngoại giao của Nhật Bản. Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản trợ giúp ASEAN để gia tăng ảnh hưởng chính trị trong khu vực. Bước sang những thập niên đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản và Trung Quốc có sự cạnh tranh quyết liệt nhằm thiết lập ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Á. Với mục tiêu thiết lập một “vòng cung tự do và thịnh vượng”, khu vực Mekong trở thành một phần chính bên trong vòng cung tự do và thịnh vượng đó của Nhật Bản. Chính vì vậy, trong Tuyên bố Tokyo 2003 tại Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN, Nhật Bản đưa ra khái niệm mới về phát triển khu vực Mekong (gọi là “Khái niệm 2003”).
Theo đó, Nhật Bản bày tỏ thái độ tích cực đối với việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Bên cạnh đó, để nâng cao tầm ảnh hưởng tại ASEAN, Nhật Bản cũng nhận thấy khu vực Mekong là mắt xích quan trọng. Kể từ khi GMS thành lập, Nhật Bản và các nước GMS đã có nhiều cuộc gặp giữa các bộ trưởng và các quan chức cấp cao để thảo luận những lĩnh vực phát triển và coi đó là một phần của chương trình Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN. Nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 (ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) tổ chức ở Viêng Chăn (Lào, năm 2004), Nhật Bản đã tiến hành Hội nghị Ngoại trưởng Nhật Bản - CLV và Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - CLV (Campuchia, Lào, Việt Nam) đầu tiên, tập trung thúc đẩy “tam giác phát triển”, bao gồm Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và miền Trung Việt Nam.
Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh kết hợp với xu thế liên kết khu vực, đặc biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc như “một công xưởng thế giới”, sự bổ sung giữa nền kinh tế Nhật Bản với các nền kinh tế Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với Nhật Bản. Hơn nữa, sự khan hiếm về mặt tài nguyên, năng lượng cũng là một bài toán khó buộc Nhật Bản phải tăng cường hợp tác năng lượng với các quốc gia có tiềm năng về nguồn dự trữ tài nguyên trong khu vực. Do vậy, GMS là khu vực Nhật Bản hướng tới. Chính sách “ngoại giao kinh tế”, trong đó có “ngoại giao ODA” kết hợp với “ngoại giao văn hóa” là hướng đi được Nhật Bản chú trọng nhằm duy trì và gia tăng lợi ích chiến lược kinh tế, chính trị của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Năm 2006, hợp tác giữa Nhật Bản và khu vực Mekong bước vào giai đoạn mới, được thể hiện trong Chương trình đối tác khu vực Nhật Bản - Mekong. Trong đó, Nhật Bản tuyên bố chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Mekong - Nhật Bản trong nỗ lực nhằm tăng cường đối thoại chính sách của Nhật Bản với các quốc gia GMS. Chương trình nhấn mạnh ba trụ cột của mối quan hệ đối tác giữa Nhật Bản - Mekong, bao gồm:
- Hội nhập các nền kinh tế của khu vực và xa hơn nữa;
- Mở rộng thương mại, đầu tư giữa Nhật Bản và khu vực Mekong;
- Chia sẻ các giá trị và mục tiêu chung, trong đó có dân chủ và việc thực thi pháp luật.
Nhật Bản tiến hành viện trợ cho các nước GMS thông qua khuôn khổ đa phương. Tuy nhiên, từ sau khi công bố “Định hướng mới trong phát triển khu vực Mekong” (năm 2003), Nhật Bản triển khai hợp tác song phương với từng bên. Thời gian đầu chủ yếu là với các nước Campuchia, Lào và Việt Nam. Năm 2007, hoạt động hợp tác và viện trợ mở rộng thêm với Myanmar và Thái Lan. Khuôn khổ hợp tác nhấn mạnh vào các trụ cột, như viện trợ đa phương và song phương, phát triển kết cấu hạ tầng vận tải, năng lượng; thúc đẩy liên kết khu vực; đẩy mạnh công nghiệp và phát triển nguồn nhân lực, đưa khu vực Mekong vào mạng lưới sản xuất của Đông Á. Có thể nói, mô hình hợp tác Mekong - Nhật Bản xuất phát từ nhu cầu cạnh tranh ảnh hưởng của Nhật Bản tại khu vực.
Năm 2009, Hội nghị thượng đỉnh Mekong - Nhật Bản lần đầu tiên được tổ chức, thông qua Tuyên bố Tokyo 2009 và Kế hoạch hành động Mekong - Nhật Bản. Hợp tác Mekong - Nhật Bản được thể chế hóa thông qua sự nhất trí tổ chức Hội nghị thượng đỉnh hằng năm. Tuyên bố Tokyo 2009 khẳng định, mục tiêu của hợp tác Mekong - Nhật Bản là xây dựng một cộng đồng Đông Á dựa trên các nguyên tắc cởi mở, công khai, minh bạch, góp phần cải thiện môi trường an ninh ở Đông Á. Để giải quyết mục tiêu ổn định và phát triển thịnh vượng, Nhật Bản vừa phải củng cố sâu sắc mối liên kết, vừa tiếp tục viện trợ cho các nước Mekong.
Năm 2011, Nhật Bản cam kết dành 20 triệu USD cho các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam để phát triển hạ tầng mềm, như Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành lang Hồ Chí Minh - Phnompenh - Bangkok; dành hơn 20 triệu USD cho hợp tác tam giác phát triển Campuchia, Lào và Việt Nam . Trong tổng số 21 tỷ USD viện trợ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội của GMS giai đoạn 2009 - 2015, Nhật Bản đã hỗ trợ các nước Mekong khoảng 13 tỷ USD (tương đương 1.100 tỷ Yên) và đã giải ngân khoảng 6,5 tỷ USD cho giai đoạn 2016 - 2018.
Ngày 9/9/2021, tại Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) lần thứ 7 theo hình thức trực tuyến, kế hoạch Khung đầu tư khu vực năm 2022 được thông qua, bao gồm 227 dự án với tổng kinh phí gần 66 tỷ USD. Hội nghị thống nhất “Kế hoạch ứng phó đại dịch COVID-19 và phục hồi GMS giai đoạn 2021 - 2023” với các nội dung hợp tác rất cụ thể trên một số lĩnh vực, như y tế, nông nghiệp, du lịch, giao thông và thương mại. Có sáu nội dung hợp tác GMS giai đoạn 2021 - 2030 được đưa ra trong Hội nghị, gồm:
- GMS cần ngăn chặn, đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh COVID-19 và xây dựng cơ chế phối hợp ứng phó với các dịch bệnh truyền nhiễm trong tương lai;
- Bảo đảm chuỗi cung ứng khu vực không bị đứt gãy trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19;
- Tạo đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông, năng lượng) đồng bộ để nâng cao tính liên kết và sức cạnh tranh của các nền kinh tế;
- Đẩy mạnh chuyển đổi số góp phần tạo động lực mới cho tăng trưởng, phục hồi kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển;
- Xây dựng GMS xanh, an toàn và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu;
- Tăng cường phối hợp giữa GMS với ASEAN và các cơ chế khu vực khác.
Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio (giữa) phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Nhật Bản ngày 27-10-2021 - Nguồn: Reuters
Với tầm quan trọng của khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản luôn tích cực và chủ động tham gia các cơ chế hợp tác do ASEAN khởi xướng. Vì vậy, từ khi GMS được thành lập (năm 1992), Nhật Bản đã chú trọng vào khu vực Mekong, điều này thể hiện ở hai điểm:
Một là, Nhật Bản mong muốn thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển. Khi sự thịnh vượng và ổn định ở châu Á phù hợp với lợi ích quốc gia của Nhật Bản, nước này đã chủ động gắn kết nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho khu vực Mekong với các hoạt động thương mại và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản.
Hai là, sự thay đổi trong chiến lược ngoại giao của Nhật Bản. Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản trợ giúp ASEAN để gia tăng ảnh hưởng chính trị trong khu vực. Bước sang những thập niên đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản và Trung Quốc có sự cạnh tranh quyết liệt nhằm thiết lập ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Á. Với mục tiêu thiết lập một “vòng cung tự do và thịnh vượng”, khu vực Mekong trở thành một phần chính bên trong vòng cung tự do và thịnh vượng đó của Nhật Bản. Chính vì vậy, trong Tuyên bố Tokyo 2003 tại Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN, Nhật Bản đưa ra khái niệm mới về phát triển khu vực Mekong (gọi là “Khái niệm 2003”).
Theo đó, Nhật Bản bày tỏ thái độ tích cực đối với việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Bên cạnh đó, để nâng cao tầm ảnh hưởng tại ASEAN, Nhật Bản cũng nhận thấy khu vực Mekong là mắt xích quan trọng. Kể từ khi GMS thành lập, Nhật Bản và các nước GMS đã có nhiều cuộc gặp giữa các bộ trưởng và các quan chức cấp cao để thảo luận những lĩnh vực phát triển và coi đó là một phần của chương trình Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - ASEAN. Nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 (ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) tổ chức ở Viêng Chăn (Lào, năm 2004), Nhật Bản đã tiến hành Hội nghị Ngoại trưởng Nhật Bản - CLV và Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - CLV (Campuchia, Lào, Việt Nam) đầu tiên, tập trung thúc đẩy “tam giác phát triển”, bao gồm Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và miền Trung Việt Nam.
Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh kết hợp với xu thế liên kết khu vực, đặc biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc như “một công xưởng thế giới”, sự bổ sung giữa nền kinh tế Nhật Bản với các nền kinh tế Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với Nhật Bản. Hơn nữa, sự khan hiếm về mặt tài nguyên, năng lượng cũng là một bài toán khó buộc Nhật Bản phải tăng cường hợp tác năng lượng với các quốc gia có tiềm năng về nguồn dự trữ tài nguyên trong khu vực. Do vậy, GMS là khu vực Nhật Bản hướng tới. Chính sách “ngoại giao kinh tế”, trong đó có “ngoại giao ODA” kết hợp với “ngoại giao văn hóa” là hướng đi được Nhật Bản chú trọng nhằm duy trì và gia tăng lợi ích chiến lược kinh tế, chính trị của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Năm 2006, hợp tác giữa Nhật Bản và khu vực Mekong bước vào giai đoạn mới, được thể hiện trong Chương trình đối tác khu vực Nhật Bản - Mekong. Trong đó, Nhật Bản tuyên bố chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Mekong - Nhật Bản trong nỗ lực nhằm tăng cường đối thoại chính sách của Nhật Bản với các quốc gia GMS. Chương trình nhấn mạnh ba trụ cột của mối quan hệ đối tác giữa Nhật Bản - Mekong, bao gồm:
- Hội nhập các nền kinh tế của khu vực và xa hơn nữa;
- Mở rộng thương mại, đầu tư giữa Nhật Bản và khu vực Mekong;
- Chia sẻ các giá trị và mục tiêu chung, trong đó có dân chủ và việc thực thi pháp luật.
Nhật Bản tiến hành viện trợ cho các nước GMS thông qua khuôn khổ đa phương. Tuy nhiên, từ sau khi công bố “Định hướng mới trong phát triển khu vực Mekong” (năm 2003), Nhật Bản triển khai hợp tác song phương với từng bên. Thời gian đầu chủ yếu là với các nước Campuchia, Lào và Việt Nam. Năm 2007, hoạt động hợp tác và viện trợ mở rộng thêm với Myanmar và Thái Lan. Khuôn khổ hợp tác nhấn mạnh vào các trụ cột, như viện trợ đa phương và song phương, phát triển kết cấu hạ tầng vận tải, năng lượng; thúc đẩy liên kết khu vực; đẩy mạnh công nghiệp và phát triển nguồn nhân lực, đưa khu vực Mekong vào mạng lưới sản xuất của Đông Á. Có thể nói, mô hình hợp tác Mekong - Nhật Bản xuất phát từ nhu cầu cạnh tranh ảnh hưởng của Nhật Bản tại khu vực.
Năm 2009, Hội nghị thượng đỉnh Mekong - Nhật Bản lần đầu tiên được tổ chức, thông qua Tuyên bố Tokyo 2009 và Kế hoạch hành động Mekong - Nhật Bản. Hợp tác Mekong - Nhật Bản được thể chế hóa thông qua sự nhất trí tổ chức Hội nghị thượng đỉnh hằng năm. Tuyên bố Tokyo 2009 khẳng định, mục tiêu của hợp tác Mekong - Nhật Bản là xây dựng một cộng đồng Đông Á dựa trên các nguyên tắc cởi mở, công khai, minh bạch, góp phần cải thiện môi trường an ninh ở Đông Á. Để giải quyết mục tiêu ổn định và phát triển thịnh vượng, Nhật Bản vừa phải củng cố sâu sắc mối liên kết, vừa tiếp tục viện trợ cho các nước Mekong.
Năm 2011, Nhật Bản cam kết dành 20 triệu USD cho các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam để phát triển hạ tầng mềm, như Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành lang Hồ Chí Minh - Phnompenh - Bangkok; dành hơn 20 triệu USD cho hợp tác tam giác phát triển Campuchia, Lào và Việt Nam . Trong tổng số 21 tỷ USD viện trợ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội của GMS giai đoạn 2009 - 2015, Nhật Bản đã hỗ trợ các nước Mekong khoảng 13 tỷ USD (tương đương 1.100 tỷ Yên) và đã giải ngân khoảng 6,5 tỷ USD cho giai đoạn 2016 - 2018.
Ngày 9/9/2021, tại Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) lần thứ 7 theo hình thức trực tuyến, kế hoạch Khung đầu tư khu vực năm 2022 được thông qua, bao gồm 227 dự án với tổng kinh phí gần 66 tỷ USD. Hội nghị thống nhất “Kế hoạch ứng phó đại dịch COVID-19 và phục hồi GMS giai đoạn 2021 - 2023” với các nội dung hợp tác rất cụ thể trên một số lĩnh vực, như y tế, nông nghiệp, du lịch, giao thông và thương mại. Có sáu nội dung hợp tác GMS giai đoạn 2021 - 2030 được đưa ra trong Hội nghị, gồm:
- GMS cần ngăn chặn, đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh COVID-19 và xây dựng cơ chế phối hợp ứng phó với các dịch bệnh truyền nhiễm trong tương lai;
- Bảo đảm chuỗi cung ứng khu vực không bị đứt gãy trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19;
- Tạo đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông, năng lượng) đồng bộ để nâng cao tính liên kết và sức cạnh tranh của các nền kinh tế;
- Đẩy mạnh chuyển đổi số góp phần tạo động lực mới cho tăng trưởng, phục hồi kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển;
- Xây dựng GMS xanh, an toàn và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu;
- Tăng cường phối hợp giữa GMS với ASEAN và các cơ chế khu vực khác.
P.TT (tổng hợp)