Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO
- Được đăng: Thứ năm, 23 Tháng 6 2016 15:47
- Lượt xem: 4076
(TGAG)- Nền kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO (2007 - 2016) mặc dù bị ảnh hưởng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, khủng hoảng nợ công nhưng vẫn duy trì được chuỗi tăng trưởng kinh tế. Trong 10 năm, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 6,29%. Đó là thành tựu hết sức quan trọng, nếu xét trong điều kiện rất khó khăn thiên tai, dịch bệnh, sự biến động giá cả thế giới và khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay.
Cụ thể, nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 289 USD thì đến năm 2015 con số này đã là 2.228 USD, dự kiến năm 2016 là 2.445 USD, cao gấp gần 8,5 lần so với năm 1995. Sản xuất nông nghiệp 10 năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn đảm bảo sản xuất ổn định. Cơ cấu trong nội bộ ngành Công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá ổn định. Năm 2015, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khoảng 6,27%. Doanh thu du lịch đạt mức cao khoảng 240 nghìn tỷ đồng năm 2015, dự kiến đạt 260 nghìn tỷ đồng năm 2016. Du lịch quốc tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2015 đạt 9 triệu lượt so với 4,2 triệu năm 2007. Các sản phẩm dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng với chất lượng được cải thiện hơn.
Xuất, nhập khẩu 10 năm qua đạt được những kết quả vượt trội nhờ mở rộng thị trường. Nổi bật, năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 162,4 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2007. Giai đoạn 2011 - 2015 mức nhập siêu được cải thiện hơn và năm 2012 Việt Nam đã có thặng dư thương mại trên 700 triệu USD, năm 2014 là 2,337 tỷ USD. Nhập siêu giảm là một trong những tác nhân quan trọng giúp giảm áp lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Về các mặt xã hội và bảo vệ môi trường, 10 năm qua trên các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dân số, việc làm và giảm nghèo, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường và các hoạt động văn hóa xã hội khác đều đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc phát triển bền vững, nâng cao từng bước đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Việc thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước đã giảm bớt khó khăn cho người dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2007-2016, mặc dù Việt Nam luôn duy trì được mức tăng trưởng khá cao, bình quân 6,29%/năm nhưng để đạt được mức tăng trưởng đó, tổng đầu tư cho phát triển luôn ở mức cao (30,0% - 46,5%), cao hơn nhiều so với các nước khác. Bên cạnh đó, năng suất lao động Việt Nam còn thấp, đóng góp vào tăng trưởng còn hạn chế. Trong công nghiệp, ngành khai thác, gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, việc sử dụng công nghệ tiên tiến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn rất thấp làm cho trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt tỷ trọng giá trị gia tăng thấp.
Nông nghiệp tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng tỷ lệ hàng nông sản qua chế biến còn thấp. Việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm, chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp còn nhiều bất cập...
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian qua còn chậm, tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP năm 2015 của Việt Nam ước thực hiện tương ứng mới đạt 17,5%; 38,2% và 44,4%.
Tóm lại, sau 10 năm hội nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này chưa được cải thiện nhiều, dẫn đến hiệu quả thấp, tăng trưởng kinh tế phát triển thiếu bền vững, nhiều vấn đề xã hội, môi trường chưa được giải quyết hiệu quả. Vì vậy, cần phải có những cải cách đột phá, tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục cải cách hành chính triệt để, khắc phục những mặt trái của cơ chế “một cửa”, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước cương quyết và hiệu quả. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, làm minh bạch, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Thứ hai, sớm xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2030, trong đó, vấn đề cốt lõi là tái cơ cấu các doanh nghiệp, các loại dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển logistics xanh, nhằm tận dụng hiệu quả các cơ hội mang lại từ hội nhập.
Thứ ba, nhanh chóng đầu tư phát triển hệ thống logistics của Việt Nam, bao gồm: Cơ sở hạ tầng logistics, thể chế pháp luật về phát triển dịch vụ logistics, phát triển các doanh nghiệp cung ứng và sử dụng dịch vụ logistics... nhằm đẩy nhanh quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Thứ tư, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ (1-2% GDP) để Việt Nam sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm kỹ thuật cao trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại giá trị cao cho xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, cùng với việc đổi mới thể chế, hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần có các biện pháp để chuyển dần từ gia công sang sản xuất, xuất khẩu, giảm và tiến tới hạn chế mức thấp nhất xuất khẩu sản phẩm thô, khoáng sản; tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.
Cụ thể, nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 289 USD thì đến năm 2015 con số này đã là 2.228 USD, dự kiến năm 2016 là 2.445 USD, cao gấp gần 8,5 lần so với năm 1995. Sản xuất nông nghiệp 10 năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn đảm bảo sản xuất ổn định. Cơ cấu trong nội bộ ngành Công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá ổn định. Năm 2015, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khoảng 6,27%. Doanh thu du lịch đạt mức cao khoảng 240 nghìn tỷ đồng năm 2015, dự kiến đạt 260 nghìn tỷ đồng năm 2016. Du lịch quốc tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2015 đạt 9 triệu lượt so với 4,2 triệu năm 2007. Các sản phẩm dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng với chất lượng được cải thiện hơn.
Xuất, nhập khẩu 10 năm qua đạt được những kết quả vượt trội nhờ mở rộng thị trường. Nổi bật, năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 162,4 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2007. Giai đoạn 2011 - 2015 mức nhập siêu được cải thiện hơn và năm 2012 Việt Nam đã có thặng dư thương mại trên 700 triệu USD, năm 2014 là 2,337 tỷ USD. Nhập siêu giảm là một trong những tác nhân quan trọng giúp giảm áp lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Về các mặt xã hội và bảo vệ môi trường, 10 năm qua trên các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dân số, việc làm và giảm nghèo, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường và các hoạt động văn hóa xã hội khác đều đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc phát triển bền vững, nâng cao từng bước đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Việc thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước đã giảm bớt khó khăn cho người dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2007-2016, mặc dù Việt Nam luôn duy trì được mức tăng trưởng khá cao, bình quân 6,29%/năm nhưng để đạt được mức tăng trưởng đó, tổng đầu tư cho phát triển luôn ở mức cao (30,0% - 46,5%), cao hơn nhiều so với các nước khác. Bên cạnh đó, năng suất lao động Việt Nam còn thấp, đóng góp vào tăng trưởng còn hạn chế. Trong công nghiệp, ngành khai thác, gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, việc sử dụng công nghệ tiên tiến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn rất thấp làm cho trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt tỷ trọng giá trị gia tăng thấp.
Nông nghiệp tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng tỷ lệ hàng nông sản qua chế biến còn thấp. Việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm, chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp còn nhiều bất cập...
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian qua còn chậm, tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP năm 2015 của Việt Nam ước thực hiện tương ứng mới đạt 17,5%; 38,2% và 44,4%.
Tóm lại, sau 10 năm hội nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này chưa được cải thiện nhiều, dẫn đến hiệu quả thấp, tăng trưởng kinh tế phát triển thiếu bền vững, nhiều vấn đề xã hội, môi trường chưa được giải quyết hiệu quả. Vì vậy, cần phải có những cải cách đột phá, tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục cải cách hành chính triệt để, khắc phục những mặt trái của cơ chế “một cửa”, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước cương quyết và hiệu quả. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, làm minh bạch, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Thứ hai, sớm xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2030, trong đó, vấn đề cốt lõi là tái cơ cấu các doanh nghiệp, các loại dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển logistics xanh, nhằm tận dụng hiệu quả các cơ hội mang lại từ hội nhập.
Thứ ba, nhanh chóng đầu tư phát triển hệ thống logistics của Việt Nam, bao gồm: Cơ sở hạ tầng logistics, thể chế pháp luật về phát triển dịch vụ logistics, phát triển các doanh nghiệp cung ứng và sử dụng dịch vụ logistics... nhằm đẩy nhanh quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Thứ tư, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ (1-2% GDP) để Việt Nam sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm kỹ thuật cao trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại giá trị cao cho xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, cùng với việc đổi mới thể chế, hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần có các biện pháp để chuyển dần từ gia công sang sản xuất, xuất khẩu, giảm và tiến tới hạn chế mức thấp nhất xuất khẩu sản phẩm thô, khoáng sản; tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.
P.TTCTTG