Truy cập hiện tại

Đang có 91 khách và không thành viên đang online

Công tác tuyên truyền

Đề cương tuyên truyền: Kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020)

(TGAG)- Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020).


Phần thứ nhất

Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước

I. Bối cảnh quốc tế và trong nước

Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc "chiến tranh lạnh" và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội (XHCN), phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.

Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.

II. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc Mỹ.

1. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.

Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp "tố cộng", "diệt cộng"  đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 "đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật", biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.

Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958-1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.

2. Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ.

Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.

3. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.

Trước nguy cơ phá sản của "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ", sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.

4. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.

Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa "đánh và đàm", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng lợi cuối cùng.

5. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.

Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

6. Ý nghĩa lịch sử

- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên CNXH.

- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.

7. Nguyên nhân thắng lợi

Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.

Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.

8. Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.

Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.

III. Thành tựu sau 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

1. Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 9/1975 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Ngày 25/4/1976 cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trên toàn quốc với hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu. Quốc hội quyết định lấy tên nước là Cộng hoà XHCN Việt Nam (từ 2/7/1976). Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy là "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất. Thành phố Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.

Việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy toàn diện sức mạnh phát triển đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên CNXH, có những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Từ đó đến nay, nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, được quán triệt trong nhiệm vụ xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân. Quốc hội có những bước đổi mới quan trọng, từ khâu bầu cử đại biểu đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường và lắng nghe ý kiến cử tri. Nâng cao sức chiến đấu, vai trò, vị trí của Đảng cầm quyền, chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức được tăng cường. Chính phủ có nhiều cải tiến trong phương thức hoạt động, trong thực hiện cải cách hành chính theo tinh thần phục vụ nhân dân. Hệ thống chính trị được củng cố, phân định rõ hơn trách nhiệm và quyền hạn, đảm nhiệm ngày càng toàn diện hơn việc lãnh đạo, quản lý sự phát triển đất nước.

2. Kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng, văn hóa - xã hội có bước tiến bộ rõ nét. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, lại bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã vượt lên, phát triển kinh tế khá nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế. Đất nước ta không những đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bao vây cấm vận, vượt qua những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới những năm 1997 - 1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu những năm gần đây mà vẫn giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Hàng hoá trên thị trường dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mức tăng trưởng GDP bình quân 6-7%/năm, đặc biệt giai đoạn 1990 - 2000 đạt 7,5%; giai đoạn 2001 - 2005 đạt 7,51%, riêng năm 2006 là 8,23% và năm 2007 là 8,48%. Năm 2008, do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước, GDP chỉ đạt 6,23%. Trong các năm từ 2009 đến 2014 tăng trưởng GDP lần lượt là 5,32%; 6,78%; 5,89%; 5,03%; 5,4%; 5,98%, từ 2015 đến 2019 tăng trưởng GDP lần lượt là 6,68%; 6,21%; 6,81%; 7,08%; 7,02%. Đặc biệt, năm 2019 Việt Nam đã thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng; là năm thứ hai liên tiếp nước ta đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó 7 chỉ tiêu vượt kế hoạch là: GDP, xuất khẩu, giảm nghèo, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng, xuất siêu, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế, số giường bệnh/vạn dân. Kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc, tốc độ GDP tăng 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra (từ 6,6-6,8%) và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực và thế giới.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được hoàn thiện. Quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất. Các loại thị trường từng bước được hình thành và phát triển, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới.

Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2008 chúng ta đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người trên 1.000 đô la, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Đến năm 2019 thu nhập bình quân đầu người đạt 64,4 triệu đồng, tương đương 2.800 USD (năm 2018 là 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD), tăng 213 USD so với năm 2018. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 đến năm 2014 còn 8%, đến năm 2019 tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm xuống còn 4% và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xoá nạn mù chữ. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tuổi thọ của người dân ngày càng tăng. Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Vấn đề tạo điều kiện ưu đãi về tín dụng, đào tạo nghề, phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo cho đối tượng chính sách được quan tâm. Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt; sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá về loại hình trường lớp; khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ có bước phát triển nhất định; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ; những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc được kế thừa và phát triển, giao lưu hợp tác văn hoá với nước ngoài được mở rộng, các tài năng văn hoá - nghệ thuật được khuyến khích; chính sách phát triển nguồn nhân lực được chú trọng.

3. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững; tiềm lực an ninh, quốc phòng ngày càng lớn mạnh. 45 năm qua, chúng ta đã bảo vệ được thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, nâng cao trình độ hiểu biết về quốc phòng, an ninh và ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển tiềm lực quốc phòng theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.

4. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Chúng ta đã phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn; có quan hệ ngoại giao với 187 nước, quan hệ kinh tế thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế ASEAN, ASEM, APEC, WTO, CPTPP; đã chính thức ký với Liên minh Châu Âu Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA), kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Khu vực (RCEP). Năm 2019 Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ hai tại Hà nội, góp phần thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao; được bầu làm ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (192/193 phiếu); tích cực tham gia giải quyết những vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan, góp phần giữ vững môi trường hoà bình khu vực và thế giới.

IV. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN

1. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975, động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, như: đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc …

2. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để  vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.

3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới. Toàn dân đoàn kết, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh, chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

5. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới: Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự nghiệp của các thế hệ đi trước trong điều kiện mới, tiến quân vào khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người, nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến; ngày nay là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

6. Phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quốc phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng - an ninh, xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân nhằm khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. 

Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chính là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

 

Phần thứ hai

An Giang phát huy truyền thống vẻ vang trong chiến đấu vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

I. Lịch sử vẻ vang của quân và dân An Giang trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước

Sau khi nhảy vào xâm lược miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Cả miền Nam nước ta, trong đó có tỉnh An Giang chìm trong khói lửa chiến tranh. Mặc dù bị quân thù đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng ở An Giang gặp nhiều khó khăn nhưng với truyền thống yêu nước, trung thành với Đảng, với dân tộc, quân và dân An Giang đã kiên cường vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ, hy sinh, chiến đấu anh dũng lập nhiều chiến công oanh liệt, cùng quân dân cả nước làm thất bại hoàn toàn các chiến lược: "Chiến tranh đơn phương", "Chiến tranh đặc biệt", "Chiến tranh cục bộ" và chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân An Giang đã cùng quân dân cả nước đánh đòn quyết định làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh. Kết quả thắng lợi quân sự của quân và dân ta trên chiến trường buộc đế quốc Mỹ phải ký "Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam", khởi đầu cho một quá trình đi xuống về mặt chiến lược của Mỹ - ngụy.

Phát huy những thắng lợi có ý nghĩa quyết định, không bỏ lỡ thời cơ, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh và hạ quyết tâm
giải phóng miền Nam bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975.

Hòa chung với các chiến dịch tiến công và nổi dậy của toàn miền Nam, trong những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1975, Đảng bộ, quân và dân An Giang đã nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang của mình, đã lãnh đạo chiến dịch giải phóng các huyện, thị xã (thuộc tỉnh An Giang) trên địa bàn hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà.

* Ở Long Châu Hà, ngay từ đầu tháng 4/1975, Tỉnh ủy chủ trương giao nhiệm vụ cho các huyện, thị xã đứng lên khởi nghĩa vũ trang, tự giải phóng địa phương mình. Nhiệm vụ chung của lực lượng vũ trang là đánh tiêu diệt từng phân chi khu địch để mở rộng vùng giải phóng tại chỗ, làm nòng cốt cho quần chúng tấn công ba mũi bao vây, bức rút, bức hàng đồn bót địch, phá tề giành chính quyền cơ sở.

Trong 10 ngày đầu tháng 4/1975, lực lượng 3 mũi của Tri Tôn, Tịnh Biên liên tục bao vây tấn công tiêu diệt đồn bót xã Lê Trì, Lương Phi, Châu Lăng, Cô Tô, Ba Chúc, Lạc Qưới, Vĩnh Gia… Lực lượng vũ trang Châu Thành, Huệ Đức tuyên truyền ra tận Vĩnh Hanh, Phú Hòa. Đội biệt động Long Xuyên tăng lên 12 chiến sĩ, thường xuyên cho người vào nội ô nắm tình hình địch. Đưa nhiều cán bộ vào nội ô Long Xuyên, Châu Đốc trực tiếp chỉ đạo phong trào, vạch kế hoạch đánh chiếm các công sở địch… Về mũi binh vận, chính trị, ta tuyên truyền vận động gia đình binh sĩ kêu gọi chồng, con, em rã ngũ về với nhân dân, xây dựng lực lượng nội tuyến trong dân vệ, phòng vệ dân sự chờ thời cơ nổi dậy.

Ngày 19/4/1975, bộ đội tỉnh (A11), lực lượng Huệ Đức, Châu Thành, Long Xuyên phối hợp lực lượng tại chỗ đánh diệt đồn Hai Trân, diệt phân khu Phú Nhuận, bứt rút đồn Cản Dừa, đánh địch phản kích giữ vững trận địa, đến ngày 23/4/2015 lực lượng ta rút quân về căn cứ vùng Huệ Đức.

Ngày 28/4/1975, Quân khu 9 chỉ đạo tỉnh Long Châu Hà đưa lực lượng vũ trang của tỉnh về giải phóng Hà Tiên là nơi yếu nhất của địch. Khi lực lượng giải phóng hành quân đến Nam Thái Sơn thì được tin Dương Văn Minh đầu hàng, Tỉnh ủy quyết định chia lực lượng ra làm hai: Một cánh tiếp tục tiến về Hà Tiên; cánh thứ hai quay lại giải giáp Ba Thê, tiến về Long Xuyên phối hợp với lực lượng vũ trang Long Xuyên, cùng lực lượng hợp pháp trong nội ô tiến hành khởi nghĩa.

Tại Long Xuyên, trưa ngày 30/4/1975, cả thị xã bao trùm một bầu không khí hoang mang, hỗn loạn. Chiều 30/4/1975, Tỉnh trưởng An Giang chạy mất. Tỉnh đoàn trưởng Bảo an và Tổng đoàn trưởng Bảo an quân Hòa Hảo đã đưa lực lượng chiếm giữ dinh Tỉnh trưởng và một số cơ quan, chốt chặn các ngã ra vào, ra lệnh giới nghiêm, kêu gọi "tử thủ".

Lực lượng cách mạng nội ô đã nhanh chóng chiếm giữ các cơ sở quan trọng, như: Đài Viễn thông, Ty Ngân khố, Ty Điền địa... bảo vệ, không cho "Bảo an quân Hòa Hảo" cướp phá. Trong lúc đó, các xã vùng ven phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền cơ sở. Đến 16 giờ ngày 01/5/1975, đại đội chủ lực của Trung đoàn 101 từ hướng Cần Thơ chi viện, kết hợp lực lượng của tỉnh và thị xã giải phóng hoàn toàn thị xã Long Xuyên vào lúc 18 giờ 30. Lực lượng "Bảo an quân Hòa Hảo" bỏ chạy về Chợ Mới.

Tại Châu Đốc, từ sáng ngày 30/4, số tàn quân địch chạy về đây ngày càng nhiều. Chỉ huy "Bảo an quân Hòa Hảo" tuyên bố "tử thủ", ép Tỉnh trưởng giao chính quyền. Thời cơ này, bộ phận lãnh đạo nội ô quyết định phát động khởi nghĩa bằng lực lượng tại chỗ. Sáng ngày 01/5, lực lượng cách mạng chiếm các công sở chính trong nội ô. Trưa ngày 01/5, lực lượng thị xã bên ngoài vào phối hợp giải phóng hoàn toàn tỉnh lỵ.

Đến chiều ngày 02/5, các huyện, thị trên địa bàn tỉnh Long Châu Hà như: Châu Thành, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên được hoàn toàn giải phóng.

* Cũng trong tình hình đó, từ ngày 18/4/1975 tỉnh Long Châu Tiền đã đưa bộ đội tỉnh giải phóng các xã vùng ven hậu Thanh Bình, bao vây Chi khu, khống chế lộ 30. Trưa ngày 30/4,  chiếm chi khu Hồng Ngự. Sáng 01/5, giải phóng hoàn toàn Tân Châu.

Ở Phú Tân, từ trưa ngày 30/4, số ác ôn, ngoan cố cùng với Bảo an quân Hòa Hảo (khoảng 2.000 tên) lập các phòng tuyến "tử thủ", lấy chiêu bài "Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo" ra Thông cáo số 1, tự tuyên bố tỉnh Châu Đốc và An Giang (Long Xuyên) thuộc quyền quản lý của quân đội Hòa Hảo và đang có "200.000 Bảo an quân tử thủ". Lực lượng cách mạng tại chỗ vừa trực tiếp vận động thuyết phục, được sự đồng tình của Tổ đình, vừa liên lạc đón lực lượng bên ngoài vào hỗ trợ. Sáng ngày 03/5, ta tiếp quản trụ sở Trung ương Giáo hội của Lương Trọng Tường, sào huyệt phản kháng của bọn phản động với rất nhiều vũ khí chôn giấu…

Tại Chợ Mới, từ sáng ngày 30/4/1975, một số sỹ quan cấp cao và các phần tử phản động trong các tổ chức chính trị, tôn giáo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cùng với binh lính, tề địch tại chỗ tụ tập tại Tây An Cổ Tự (Long Kiến) vạch kế hoạch chiếm giữ cứ điểm các tỉnh miền Tây.

Từ chiều 30/4 đến ngày 02/5, bộ đội từ hướng Mỹ An Hưng (Sa Đéc) lần lượt đánh tan các tuyến phòng ngự của địch ở Hội An, Hòa Bình, An Thạnh Trung, chiếm chi khu Chợ Mới.

Chiều ngày 03/5, lực lượng Quân khu 8 chi viện lần lượt đánh chiếm tuyến Long Điền - Bà Vệ, kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Ngày 04/5, hàng ngàn "Bảo an quân Hòa Hảo" ra hàng, nhưng vẫn còn trên 3.000 tên bị bọn đầu sỏ khống chế vẫn tiếp tục tử thủ.  Lực lượng giải phóng bao vây, tấn công các hướng vào Tây An Cổ Tự. Đồng thời, ráo riết vận động thân nhân Bảo an quân kêu gọi con em trở về nhà. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, 8 giờ sáng ngày 06/5/1975, toàn bộ số quân còn lại kéo cờ trắng ra hàng, huyện Chợ Mới hoàn toàn giải phóng. Kết thúc cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, tỉnh Long Châu Hà và tỉnh Long Châu Tiền được hoàn toàn giải phóng.

Chiến thắng 30/4 tại An Giang nói lên ý chí tự lực, tự cường và sự chuẩn bị chu đáo cả thế và lực tại chỗ, sẵn sàng và đã thực hiện nhanh, gọn, bóp chết âm mưu của các thế lực hiếu chiến, ngoan cố muốn dựa vào lực lượng phản động để tử thủ, mong chờ sự trở lại của thế lực từ bên ngoài.

II. Thành tựu 45 năm xây dựng và phát triển (1975 -2020) của Đảng bộ và Nhân dân An Giang

Năm 2020 là năm thứ 45 kể từ ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất và hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, An Giang trở thành một trong những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng, thu hút đầu tư, mở rộng đối ngoại,... được Chính phủ chọn là một trong 04 tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Sông Cửu Long. Cụ thể:

Giai đoạn 1975-1985, giai đoạn 10 năm sau ngày giải phóng, nền kinh tế nước ta nói chung và An Giang nói riêng phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, sức sản xuất bị kiềm hãm nên tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, hàng hoá được sản xuất ít về sản lượng, không phong phú về chủng loại, kém về chất lượng, xuất khẩu là đầu ra của sản xuất nhưng cũng chỉ xuất được các mặt hàng kém đa dạng như xương trâu bò, lông vịt, đệm bàng, bột khoai mì... với kim ngạch xuất khẩu chỉ được vài triệu USD.

Giai đoạn 1986-1990, bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện chủ trương "giá lương tiền", giải phóng lực lượng sản xuất. Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới này nền kinh tế cả nước đang xuống thấp, lạm phát lên đến 700%, khủng hoảng kinh tế xuất hiện, đời sống nhân dân khó khăn, thất nghiệp gia tăng. Trước tình hình đó, An Giang đã chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, giúp nền kinh tế dần hồi phục, thế mạnh nông nghiệp được phát huy. Nhờ sự đổi mới này, năm 1988, sản lượng lương thực của tỉnh đã vượt ngưỡng 1 triệu tấn. Việc chuyển sang cơ chế thị trường đã tạo bước ngoặt trong định hướng sản xuất hàng hóa của tỉnh, đưa kim ngạch xuất khẩu năm 1989 đạt trên 60 triệu USD, gấp 9 lần năm 1985.

Giai đoạn 1991-1995, nền kinh tế của tỉnh phát triển với nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và chuyển mạnh sang thời kỳ đổi mới, hòa nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, nhất là khối ASEAN. Kinh tế của tỉnh bắt đầu tăng tốc, tăng trưởng cao qua các năm, hộ nghèo giảm dần, điện đường, trường, trạm đã đến được đều khắp các vùng sâu vùng xa trong tỉnh, khoảng cách chênh lệch về cuộc sống giữa nông thôn và thành thị được rút ngắn một cách đáng kể. GDP bình quân thời kỳ 1991-1995 tăng 9,9%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch dần theo hướng tích cực theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (thời kỳ 1976-1986, khu vực I chiếm 67-70%, đến năm 1990 khi đi vào đổi mới, khu vực I giảm còn 59% và đến năm 1995 còn 53,5%).

Tiếp đến giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,88%. Giai đoạn này kinh tế tăng trưởng có giảm so trước do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (ASEAN) gây giảm phát, chỉ số giá tiêu dùng qua 5 năm có mức tăng không đáng kể. Năm 1999 nhiều đợt triều cường gây lũ sớm cục bộ ở đầu nguồn làm thất thu trong sản xuất vụ Đông xuân trên 90.000 tấn...

Đến giai đoạn 2001-2005, kinh tế của tỉnh tăng trưởng nhanh trở lại, tốc độ tăng trưởng bình quân 9,1%; giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng bình quân tăng 10,34%. Giai đoạn 2011-2015, kinh tế An Giang luôn đối mặt với rất nhiều thách thức, sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn; thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường; nhu cầu đầu tư cho an sinh xã hội và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng cao, nguồn lực còn hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Tốc độ tăng trưởng bình quân (theo giá so sánh 1994) trong 05 năm đạt khoảng 8,63% (theo giá 2010 tăng khoảng 5,44%).

Giai đoạn 2016-2020, ước tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 5,64%, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 50 triệu đồng, tăng gần 1,6 lần so với giai đoạn 2011-2015; tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai 2016-2020 trên 148 ngàn tỷ đồng; tổng thu ngân sách từ kinh tế địa bàn đạt 30.345 tỷ đồng, tăng trên 1,16 lần so với giai đoạn 2011-2015. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2016-2020 đạt 4,18 tỷ USD tương đương với giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực, năm 2016 nền kinh tế chủ yếu là thuần nông với tỷ trọng nông nghiệp chiếm 32,79%, đến năm 2020 khu vực nông nghiệp đã giảm xuống còn 27,07%, công nghiệp xây dựng tăng từ 13,76 lên 15,44%, dịch vụ tăng từ 51,83% lên 56,01%.

Những năm qua, nhờ có chủ trương, chính sách thu hút đầu tư hợp lý nên môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng, thuận lợi và hấp dẫn. Trong năm 2018, An Giang đã tổ chức thành công Hội nghị Xúc tiến đầu tư. Tại Hội nghị, UBND tỉnh đã trao Quyết định chủ trương đầu tư cho 26 dự án với tổng vốn đăng ký khoảng 27.658 tỷ đồng. Công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường thu hút đầu tư được thực hiện đồng bộ, hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Tỉnh, phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể: (1) Chỉ số cải cách hành chính (ParIndex) năm 2016 hạng 36, năm 2017 và 2018 hạng 8/63 tỉnh, thành phố trên cả nước. (2) Chỉ số quản trị và hành chính công (PAPI) năm 2016 hạng 34, năm 2017 hạng 18, năm 2018 hạng 25/63 tỉnh, thành phố. (3) Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2016 hạng 38, năm 2017 hạng 32, năm 2018 hạng 28/63 tỉnh, thành phố.

Nhìn lại chặng đường đã qua, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, với xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhưng đến nay An Giang đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Kinh tế của tỉnh có bước phát triển vượt bậc, từ một tỉnh đứng trước ngưỡng thiếu lương thực với sản lượng lúa khoảng 848 ngàn tấn (năm 1986) đến có dư thừa để xuất khẩu, đạt trên mức 02 triệu tấn lần đầu tiên vào năm 1996, trên mức 03 triệu tấn vào năm 2007 và hiện nay là trên 04 triệu tấn, là một trong những tỉnh có sản lượng lúa đứng đầu cả nước, lượng gạo xuất khẩu đạt trên 500 ngàn tấn (gấp 04 lần so năm 1990 và gấp gần 64 lần so năm 1985). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ. Sản xuất nông nghiệp hướng đến sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Bộ mặt nông thôn không ngừng cải thiện, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân khu vực nông thôn được nâng lên.

Năm 2020, là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ X; năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XI; tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; năm kỷ niệm nhiều sự kiện chính trị trọng đại; năm Việt Nam thực hiện vai trò Chủ tịch ASEAN và Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức, nhất là trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, đòi hỏi toàn Đảng bộ, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực, quyết tâm, đoàn kết, phấn đấu để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của năm 2020.

*

*  *  *

Kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020) cũng là dịp để toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân ôn lại trang sử vẻ vang, truyền thống đấu tranh hào hùng của dân tộc Việt Nam nói chung, của Đảng bộ và Nhân dân An Giang nói riêng; nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc; thể hiện sự tri ân đối với các thế hệ cha anh, của đồng bào, đồng chí khắp mọi miền đất nước đã góp sức người, sức của và xương máu, góp phần tô đậm thêm những trang sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Từ đó, tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng An Giang trở thành tỉnh giàu, đẹp, văn minh./.

MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN

1- Nhiệt liệt chào mừng 45 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020)!

2- Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Sức mạnh của ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình!

3- Tinh thần Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) và Ngày Quốc tế lao động (1/5) bất diệt!

4- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!

5- Người người thi đua, ngành ngành thi đua làm nhiều việc tốt vì một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!

6- Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!

7- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!

8- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY AN GIANG

Tiến tới đại hội đảng
Dua-nghi-quyet-vao-cuoc-song
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
40056205