Truy cập hiện tại

Đang có 321 khách và không thành viên đang online

Công tác Khoa giáo

An ninh nguồn nước

(TGAG)- An ninh nguồn nước đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của thế giới và được dự báo tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến các cuộc xung đột quốc tế, thậm chí là nguyên nhân chủ yếu của xung đột trong thế kỷ XXI.

Theo thống kê, tổng diện tích các lưu vực sông trên cả nước lên đến trên 1.167.000 km2, trong đó có 72% phần lưu vực nằm ngoài diện tích lãnh thổ (lưu vực sông Cửu Long, 95% lượng nước chảy về từ thượng lưu sông Mê Kông; gần 40% lượng nước mặt sông Hồng - sông Thái Bình bắt nguồn từ Trung Quốc; 30% lượng nước của sông Mã, 22% lượng nước của sông Cả chảy về từ Lào; 17% lượng nước của sông Đồng Nai chảy về từ Campuchia...). Hiện nay, tổng lượng nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 830 - 840 tỷ m3, phần lớn nguồn nước phụ thuộc vào nước ngoài là thách thức lớn nhất đối với an ninh nguồn nước ở Việt Nam.

 
Đáng quan tâm là trước thập niên 2000, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là khu vực có an ninh nguồn nước cao nhất Việt Nam. Tài nguyên nước ở vùng đồng bằng châu thổ này khá đa dạng, gồm nước mặt (sông, hồ, biển), nước ngầm và nước mưa, với trữ lượng rất dồi dào và chất lượng đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt, sản xuất và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, từ giữa cuối thập niên 2000 trở lại đây, nguy cơ mất an ninh nguồn nước ở ĐBSCL ngày rõ rệt. Nguồn nước ngầm hiện bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng trên diện rộng. Mùa mưa diễn biến không còn theo quy luật, kéo theo những thay đổi đáng kể về phân bố lượng mưa và trữ lượng nước mưa, theo hướng giảm dần. Đặc biệt, những năm bị ảnh hưởng của hiệu ứng El Nino, phần lớn vùng ĐBSCL chìm trong khô hạn và mùa mưa bị rút ngắn. Đáng ngại hơn, nguồn cung nước trọng yếu nhất cho ĐBSCL nằm ở sông Mê Kông lại đang bị chặn dòng từ thượng nguồn, khiến cho lưu lượng dòng chảy không ổn định và trữ lượng phù sa về đồng bằng liên tục giảm mạnh.

Bên cạnh vấn đề thiếu phù sa, một số vùng nước lợ nuôi tôm ven biển ở Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu... và vùng biển Tây thuộc Kiên Giang cũng trở nên ô nhiễm khiến dịch bệnh xuất hiện liên tục, gây thiệt hại với quy mô hàng trăm nghìn hecta mỗi năm.

Từ góc độ an ninh môi trường, có thể thấy tình trạng mất an ninh nguồn nước chủ yếu gây ra bởi các nguyên nhân từ biến đổi khí hậu, nguyên nhân từ phía thượng nguồn và các nguyên nhân nội tại - do chính chúng ta gây ra. Các nguyên nhân này có nguồn gốc và mức độ tác động khác nhau, tuy nhiên khi xuất hiện cùng thời điểm sẽ tạo ra tác động cộng hưởng rất nghiêm trọng. Điều này lý giải tại sao vùng đất từng được mệnh danh là “thế giới sông nước” hay cái nôi của “văn minh sông nước - miệt vườn” nhưng chỉ trong vài năm trở lại đây đã mau chóng đối mặt với thách thức mất an ninh nguồn nước một cách báo động.

Từ biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu đang tạo ra những thay đổi đáng kể về thời tiết và môi trường ở ĐBSCL. Tình trạng xuất hiện liên tục các hiệu ứng thời tiết cực đoan như khô hạn kéo dài (El Nino) cùng với thay đổi chế độ và lưu lượng mưa trung bình năm đã làm thiếu hụt nghiêm trọng lượng nước ngọt cần thiết tích trữ cho vùng. Trong khi đó, sự gia tăng mực nước biển cho phép nước mặn ngày một xâm lấn vào sâu trong nội địa, nhất là vào thời điểm mùa khô. Kết quả là nguồn nước ngầm và nước mặt ở các sông, hồ sẽ không tránh khỏi bị nhiễm mặn và lan tỏa ra phạm vi xung quanh. Do không nắm được diễn biến này, nhiều hộ dân theo thói quen đã lấy nước từ các kênh rạch để tưới tiêu dẫn đến thiệt hại trên diện rộng.

Từ thượng nguồn sông Mê Kông: Đập thủy điện, các hồ chứa nhân tạo và các dự án chuyển nước trên dòng chính sông Mê Kông liên tục được triển khai trong hai thập kỷ trở lại đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra thực trạng mất an ninh nguồn nước ở ĐBSCL. Các dự án này không chỉ khiến lưu lượng nước ở hạ lưu sông Mê Kông bị biến động, mà đáng quan ngại hơn chất lượng của nguồn nước cũng không đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo sinh kế, phát triển và bảo tồn sinh thái.

Cụ thể, lượng phù sa sông Mê Kông liên tục bị giữ lại khi đi qua các bậc thang thủy điện. Theo tính toán mô hình, nếu cả 9 con đập dòng chính trên lãnh thổ Lào tiếp tục được triển khai, tổng lượng phù sa vốn có của sông Mê Kông khi về đến ĐBSCL giảm chỉ còn 5-7% (tương đương 10-13 triệu tấn/năm) so với nhu cầu tối thiểu 120-130 triệu tấn/năm để làm màu mỡ các cánh đồng và bồi đắp, duy trì hình dạng bờ biển ở ĐBSCL.

Thêm vào đó, các hồ thủy điện dù với công nghệ nào cũng tạo ra sự biến đổi chắc chắn không thể phục hồi đối với hệ thủy sinh trên sông Mê Kông. Một lượng lớn các loài cá sẽ không thể di chuyển tự do giữa các vùng để di trú và sinh sản. Hiện tại, con sông này đang bị các quốc gia vùng thượng nguồn (đặc biệt là Trung Quốc) sử dụng bất chấp hậu quả gây ra đối với Việt Nam. Nhiều đập và hồ chứa lớn, nhỏ được Trung Quốc, Thái Lan, Lào xây dựng trên sông Mê Kông đang làm tổn thất sản lượng đánh bắt trong ngư nghiệp, đe dọa trực tiếp cuộc sống của hàng chục triệu người dân ĐBSCL.

Mặt khác, tình trạng ô nhiễm phát thải từ các đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp ở thượng nguồn. Hàng loạt cảng sông, công xưởng và nhà máy do Trung Quốc tài trợ đang và sẽ được triển khai dọc sông Mê Kông thuộc Lào, Thái Lan và Campuchia. Khi chất thải công nghiệp, khai khoáng... ở Lào và Campuchia đổ vào sông Mê Kông sẽ gây ra ô nhiễm nguồn nước, phơi nhiễm vào nguồn thủy sinh (các đàn cá di trú), từ đó sẽ lan tỏa dần về hạ lưu. Sự hiện diện gia tăng và mở rộng ảnh hưởng kinh tế mau chóng của Trung Quốc ở các nước dọc sông Mê Kông cùng với các bài học về Formosa, sông Thị Vải... đủ cơ sở để cho thấy một nguy cơ mới đe dọa nguồn nước sinh hoạt và sản xuất của người dân ĐBSCL.

Từ nội tại: Nổi bật nhất là vấn đề quản lý không hiệu quả tài nguyên nước và quy hoạch công nghiệp thiếu bền vững. Bắt đầu từ các nỗ lực chống lũ, mạng lưới đê bao và cống ngăn lũ được xây dựng đồng loạt ở phạm vi rộng lớn hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu. Do bị cách ly với nguồn phù sa từ mùa lũ, nhiều cánh đồng bị bạc màu dưới sức ép tăng vụ và xen canh liên tục. Để duy trì sản lượng, nông dân bắt đầu lạm dụng phân bón và hóa chất trên khắp các cánh đồng. Hệ lụy có thể thấy rõ là lượng tôm cá tự nhiên hoàn toàn kiệt quệ do nguồn nước bị ô nhiễm nặng.

Thêm vào đó, việc lựa chọn các ngành công nghiệp phát thải ô nhiễm cao như sản xuất - tái chế giấy, vật liệu xây dựng, nhiệt điện, bia rượu... để thu hút đầu tư vào ĐBSCL là một bước đi không bền vững, thu hẹp diện tích đất nông nghiệp màu mỡ và đặt ra nhiều nguy cơ “mất trắng” nguồn nước ngọt trên quy mô rộng lớn. Ngoài ra, suy giảm nguồn nước ngầm và thiếu hụt lượng phù sa từ sông Mê Kông còn gây ra hệ lụy trực tiếp về tự nhiên như sạt lở, sụt lún nền đất quy mô lớn, thu hẹp các hệ sinh thái cửa sông và ven biển, gây biến dạng và tan rã đối với ĐBSCL.

Do vậy, chính quyền các địa phương cần quan tâm việc đảm bảo sự cân bằng an ninh nguồn nước bền vững; quy hoạch đô thị hóa thân thiện môi trường; phục hồi độ che phủ rừng cây và ngăn chặn việc tận thu nguồn nước ngầm. Mặt khác, chúng ta cũng cần có đối sách khả thi hơn trước xu hướng tranh chấp tài nguyên nước giữa những quốc gia có quyền lợi liên quan gắn với các dòng sông chung sẽ ngày càng trở nên căng thẳng, nghiêm trọng.

THÁI THÚY XUÂN
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Tiến tới đại hội đảng
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
39937996