Truy cập hiện tại

Đang có 46 khách và không thành viên đang online

Phê phán luận điểm “Chủ nghĩa Mác – Lê-nin không còn phù hợp ở thế kỷ XXI” (phần kết)

(Tiếp theo và hết)
(TGAG)- Vấn đề thứ mười: “Chủ nghĩa Mác đã trở nên lỗi thời. Nó bị thay thế bởi các học thuyết khác như: phong trào nữ quyền, vấn đề bảo vệ môi trường, chính trị dân tộc, toàn cầu hóa, phong trào vì hòa bình…”.

T. Eagleton đã dày công khảo cứu các tác phẩm của C. Mác, sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác trong thực tiễn, khảo luận lịch sử phát triển chủ nghĩa tư bản, vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản để đi đến khẳng định rằng, những người phê phán Mác là những người hoặc không hiểu tầng nghĩa sâu xa trong triết học Mác, hoặc không đọc hết các tác phẩm của ông, hoặc cố tình vu khống ông vì mục đích chính trị.

Tác giả cũng luận giải cụ thể rằng, về các phong trào nữ quyền, vấn đề giới, phong trào giải phóng dân tộc, vấn đề gia cấp và dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình, đấu tranh bảo vệ môi trường, Mác đều có những đóng góp vượt trội trên cả bình diện tư tưởng và hoạt động thực tiễn. Đặc biệt, trên bình diện lý luận thì tư tưởng của ông ngày nay vẫn luôn tỏa sáng. Nhiều trang viết trong tác phẩm của Mác cũng như chính thực tiễn phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã chỉ ra rằng, chính những người mác xít, chứ không phải ai khác, đã và đang trở thành đội quân tiên phong của các cuộc đấu tranh vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại. Đó là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đấu tranh giải phóng phụ nữ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh bảo vệ môi trường… Khi vạch mặt, chỉ tên bản chất tàn phá sinh thái, sự chạy đua theo lợi nhuận, khả năng “không thể nào tạo dựng được hòa bình thế giới” của chủ nghĩa tư bản, T.Eagleton còn lớn tiếng kêu gọi: “Nếu nhân loại chúng ta không hành động ngay từ bây giờ thì có lẽ chủ nghĩa tư bản sẽ là mồ chôn chính chúng ta”.

Tại sao Mác đúng? ra đời vào thời điểm mà chủ nghĩa tư bản đang rung chuyển tận gốc rễ với cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với sự lúng túng về đường lối chính trị của nhiều chính thể tư bản bị quy định trực tiếp bởi cuộc khủng hoảng nợ công đang phủ bóng u ám lên đời sống xã hội cả một khu vực rộng lớn của châu Âu. Cho dù vậy, việc bảo vệ chủ nghĩa Mác đồng nghĩa với việc phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa ngay giữa thành trì của nó, cũng như việc phê phán những luận điểm, âm mưu chống Mác trước búa rìu dư luận ở châu Âu và phương Tây cũng không phải là một việc dễ chịu. Điều đó cho thấy sự nhạy cảm chính trị và sự dũng cảm khoa học của tác giả.

Cũng cần lưu ý rằng, tác giả là một học giả phương Tây không phải là người theo chủ nghĩa Mác (như chính tác giả thừa nhận) nên một số quan điểm, nhận xét trong tác phẩm còn mang tính cá nhân, có thể chưa hẳn đã hoàn toàn chặt chẽ về mặt học thuật, nhất là có những quan điểm không hoàn toàn phù hợp với quan điểm, tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên, xét về tổng thể có thể nói rằng Tại sao Mác đúng? là một tác phẩm có giá trị tham khảo tốt, mang lại cho chúng ta thêm một cách nhìn mới, một cơ sở mới để củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác với vai trò là nền tảng tư tưởng của công cuộc cách mạng xây dựng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cuốn sách cũng cho thấy một sự đánh giá trân trọng, phản ánh chiều dư luận tích cực trên thế giới, thể hiện thái độ đúng đắn, khách quan của thế giới trong việc kế thừa, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác vì sự phát triển tốt đẹp của nhân loại.

Cùng với luận điệu cho rằng: “Học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học”(!); gần đây bọn cơ hội đã sản xuất ra luận điệu “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam”, ...Sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và Việt Nam đã được lịch sử minh chứng...

Luận điệu “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với Việt Nam” cũng là một kiểu ngụy biện, cần bác bỏ.

Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội (HT.KT- XH) của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam. Mọi người đều biết, học thuyết HT. KT- XH là cơ sở lý luận và phương pháp luận để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử Việt Nam chúng ta.

Học thuyết Mác - Lê-nin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả sự trăn trở, những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương Tây, như chính bản thân nó tỏa sáng. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi chủ nghĩa Mác hình thành, phát triển vào giữa thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng, quan điểm và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát hiện ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào hay ở châu lục nào.

Như trên đã phân tích, Mác là nhà khoa học thiên tài và cách mạng triệt để nhất đã vạch trần một cách chính xác bản chất bóc lột của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - thủ phạm cầm tù nhân dân lao động dù ở chính quốc hay thuộc địa của giai cấp tư sản, kẻ chà đạp lên độc lập tự do của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bản chất bóc lột của CNTB vẫn không thay đổi, bản chất phản động toàn diện của nền chính trị tư sản hiện đại vẫn tồn tại, bản chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong tất yếu của CNTB vẫn luôn là vấn đề thời sự. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác”.

Năm 1999, Trường Đại học Cam-brit (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ thứ 2, kết quả là C. Mác đứng đầu, A. Anh-xtanh - nhà khoa học lớn, đứng thứ 2. Và mới đây, theo thăm dò của tờ Tạp chí Spiegel (Đức), C. Mác được ưa chuộng một cách ngạc nhiên - hơn 50% số người dân Đức nói rằng, “sự phê phán của C. Mác đối với chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị”, và thậm chí hơn 56% cho rằng, “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng hay nhưng thực hành tồi”; và C. Mác trong giới trẻ còn nhận được sự đồng tình cao hơn nữa. Nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán G. Sô-rốt viết: “C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư bản từ cách đây 150 năm”. Rồi, ngay tờ The New Yorker (Mỹ) cũng cho rằng, các nhà kinh tế học hiện đại đang “bước theo dấu chân của C. Mác mà họ không biết”, theo Tạp chí Newsweek (Mỹ), Mác “đã mổ xẻ cái hệ thống trục lợi này tốt hơn ai hết... Như thể C. Mác đã đội mồ đứng dậy!”. Và thực tế đang chứng minh rằng, chính bản thân CNTB dù ở phương Đông hay phương Tây (từ Nhật Bản tới Tây Âu rồi Mỹ...) cũng đã và đang vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại đó thôi.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sác-lơ Phuốc-ni-ô ngày 15-7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lê-nin”.

Nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Người đã nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách cơ bản, hệ thống. Ngày 12-7-1946, trả lời trong cuộc họp báo, Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Người không bao giờ “tách mình” ra khỏi C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin để đưa ra các quan điểm riêng mà như Người nói là “cố gắng vận dụng” tư tưởng của các nhà kinh điển đó, “nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.

Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Hồ Chí Minh đã nói rằng: trước khi đến với chủ nghĩa Lê-nin, “tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên”, tham gia Đảng Xã hội Pháp vì họ ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, còn “Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi không hiểu”. Nhưng “từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã, đang và mãi mãi dẫn dắt cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng góp phần giải phóng toàn thể nhân loại cần lao, như bất cứ ai không thể không thấy!
Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu của gần 30 năm đổi mới mà Việt Nam đã đạt được, một phần rất quan trọng là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Như vậy, không thể nói chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “xa lạ”, là “không phù hợp” với Việt Nam . Từ những phân tích nói trên, chúng ta khẳng định:

Thứ nhất, học thuyết Mác - Lê-nin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học thuyết khoa học và cách mạng. Học thuyết đó là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài người. Học thuyết Mác - Lê-nin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự trở thành nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thứ hai, là học thuyết khoa học và đúng đắn, nhưng học thuyết Mác - Lê-nin cũng là sản phẩm của thời đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, nên không thể đưa ra những giải đáp đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Do vậy, cần phải xem học thuyết Mác - Lê-nin là học thuyết mở, phải được bổ sung, phát triển không ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, thực tiễn của nhân loại. Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước để vận dụng một cách sáng tạo. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về sự vận dụng sáng tạo và sự đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - Lê-nin của Đảng ta, của nhân dân ta.

Thứ ba, vận dụng lý luận vào thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.

Kể từ “Đường kách mệnh” cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Từ Đại hội VII đến nay có sự bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng...”. Ngay từ năm 1991, Đại hội VII đã khẳng định: “...tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”.

Bước vào thế kỷ XXI, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa với xung lực là kinh tế tri thức đang tiến với tốc độ “một ngày bằng cả trăm năm” đã và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những trọng trách mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn hơn. Nói cách khác, khi lịch sử thế giới bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hơn bao giờ hết, hàng loạt vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra mệnh hệ tới tương lai của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta phải tìm câu trả lời cấp bách, trong lúc những vấn đề mới mẻ và khó khăn ấy, mà sinh thời các nhà kinh điển không và không thể để lại một lời chỉ dẫn nào cụ thể cả.

Cố nhiên, chúng ta không thể phủ nhận một điều là, những thập niên 70, 80, nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong quá trình hiện thực hóa lý luận mác-xít đó, những người cộng sản gặp phải khó khăn to lớn. Đặc biệt, khi lịch sử phát triển nhân loại ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi xu thế toàn cầu hóa trở thành phổ biến với những xung lực mạnh mẽ, công việc đó càng trở nên khó khăn gấp bội. Giai cấp công nhân mà đứng đầu là đảng cách mạng của nó đã, đang và tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử XHCN, khi biết dựa vào sự chỉ dẫn của lịch sử phong trào XHCN, biết cách vượt lên những thách thức “mất, còn” của thời đại và điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định nhất là phải biết trở về với chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách kiên định và sáng tạo.

Do đó, trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta càng phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và sáng tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là, cần nghiên cứu và thấu triệt nó với tư cách không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về phương diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu trúc hệ thống, một thực thể vận động và thống nhất trên bình diện khoa học - thực tiễn mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như chính bản thân học thuyết Mác - Lê-nin chứa đựng và thể hiện.

Qua thử thách và sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử, điều ngày càng sáng tỏ là, do sự kết tinh những tư cách và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tự nó đã là một khoa học mang tính cách mạng sâu sắc. Vì, nó là học thuyết không chỉ nhằm giải thích thế giới mà quan trọng hơn là, nhằm cải tạo thế giới. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin tuyệt đối không phải là thứ khoa học tự thân mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn và vì thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm tới mục tiêu giải phóng con người khỏi sự chế ngự bởi “vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc tự do”. Vì thế, tự nó hàm chứa khả năng tự phát triển, tự sáng tạo không ngừng, thông qua cách mạng. Nói kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chính là phải không ngừng phát triển nó bằng thực tiễn cách mạng sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp thời và hiệu quả mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó./.

NC-GDLLCT (tổng hợp)

Tiến tới đại hội đảng
Dua-nghi-quyet-vao-cuoc-song
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
40455532