Truy cập hiện tại

Đang có 277 khách và không thành viên đang online

Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020

(TGAG)- Hướng tới Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Tuyên giáo An Giang đăng tải Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IX trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X.

XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY DÂN CHỦ, ĐOÀN KẾT, ĐỔI MỚI; KHAI THÁC TỐT LỢI THẾ VÀ TIỀM NĂNG, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ĐỂ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
(Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IX trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X)

Phần I
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ IX
NHIỆM KỲ 2010 - 2015

Năm năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà đã phát huy truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện, đưa kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; giữ vững quốc phòng, an ninh; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ không ngừng nâng lên; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường.

I- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1- Kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm (2011 - 2015) đạt 8,63% (theo giá so sánh năm 1994), giá trị tuyệt đối tăng thêm 8.640 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng giảm mạnh khu vực nông nghiệp (giảm 8,43%), tăng khu vực dịch vụ (tăng 6,94%); thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 39,274 triệu đồng/người/năm (theo giá hiện hành), tăng 1,32 lần so với năm 2010.
Nông nghiệp tiếp tục giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế. Việc cơ cấu lại ngành Nông nghiệp gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật góp phần tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, từng bước đưa nông nghiệp phát triển theo chiều sâu. Một số mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị như: “Cánh đồng lớn”, chuỗi giá trị trên rau màu, thủy sản... mang lại nhiều hiệu quả bước đầu. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai đồng bộ, thực chất, huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân, đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Công nghiệp chế biến, công nghệ sau thu hoạch phục vụ nông nghiệp và xuất khẩu phát triển khá, làm tăng thêm giá trị của sản phẩm . Các khu, cụm công nghiệp từng bước được hoàn thiện hạ tầng, đáp ứng nhu cầu kêu gọi đầu tư. Hoạt động khuyến công đã hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm; hỗ trợ khôi phục ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống.
Thương mại - dịch vụ tăng trưởng ổn định, thị trường xuất khẩu mở rộng, giá trị xuất khẩu tăng qua từng năm, quy mô thị trường nội địa ngày càng tăng . Du lịch phát triển khá, một số công trình mới được đưa vào khai thác, nâng chất lượng dịch vụ, thu hút du khách. Lưu lượng hàng hóa và kim ngạch xuất nhập khẩu qua lại biên giới tăng .
Kinh tế hợp tác tiếp tục phát triển, nhận thức về bản chất, vị trí và vai trò của kinh tế hợp tác trong phát triển kinh tế - xã hội được nâng lên . Kinh tế tư nhân đã hình thành một số doanh nghiệp có quy mô lớn hướng vào những lĩnh vực mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế, như: chế biến gạo, thủy sản, rau quả…
Ngân sách đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được phân bổ tập trung hơn. Quản lý ngân sách chặt chẽ. Các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, sản xuất, dịch vụ tăng khá, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh .
Các đô thị trung tâm phát triển gắn với thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn; bộ mặt đô thị và nông thôn mới từng bước thay đổi theo hướng văn minh, góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân.
Công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường được quan tâm, ý thức trách nhiệm của người dân và của doanh nghiệp được nâng lên. Hoạt động khảo sát, quan trắc, cảnh báo ô nhiễm, suy thoái môi trường, kiểm tra và xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường được thực hiện thường xuyên. Nhiều mô hình, dự án liên quan đến bảo vệ tài nguyên, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được triển khai khá đồng bộ; các mô hình thu gom rác thải ở nông thôn, cụm xã mang lại nhiều hiệu quả… Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã phát huy tốt nguồn lực về đất đai.
Cải cách hành chính được chú trọng, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng theo quy định của pháp luật . Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp có vốn nhà nước được thực hiện theo lộ trình, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, vừa đảm bảo phục vụ công tác quản lý, điều hành của địa phương.
Các đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ tài chính, sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước và huy động được các nguồn lực xã hội đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị, từng bước nâng chất dịch vụ công, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng cao.
2- Văn hóa - xã hội
Giáo dục và đào tạo có bước đổi mới, phát triển về quy mô và chất lượng. Các cấp học từ mầm non đến phổ thông cơ bản đã phủ kín trên địa bàn; huy động học sinh đến trường hằng năm tăng, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kể. Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng mở rộng. Cơ sở vật chất trường, lớp học, cơ sở dạy nghề công lập được đầu tư, nâng cấp theo hướng kiên cố, từng bước chuẩn hóa, hiện đại hóa. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn nâng lên về số lượng, từng bước cải thiện về chất lượng; số lao động được giải quyết việc làm ổn định hằng năm. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực .
Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ đóng góp tích cực cho phát triển sản xuất. Các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến được doanh nghiệp đưa vào áp dụng, thực hiện, nhất là các tiêu chuẩn quốc tế.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới và nhiều phong trào khác ngày càng đi vào chiều sâu. Các thiết chế văn hóa ở cơ sở tiếp tục được đầu tư, nâng cấp ; hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật có bước phát triển. Nhiều di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng trên địa bàn được quy hoạch, đầu tư nâng cấp, tôn tạo và đưa vào khai thác. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa được bảo tồn và phát huy. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội được quan tâm hơn. 
Phong trào rèn luyện thể dục, thể thao ở cơ sở, trường học, lực lượng vũ trang phát triển khá mạnh, góp phần nâng cao sức khỏe và thể chất người dân; thể thao thành tích cao tiếp tục được giữ vững; cơ sở vật chất được tăng cường thông qua xã hội hóa.
Lĩnh vực thông tin truyền thông được quan tâm đầu tư, hoạt động có bước phát triển rõ nét, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người dân, phòng, chống dịch bệnh được chú trọng. Mạng lưới khám, chữa bệnh được củng cố, phát triển theo hướng chuyên khoa hóa tuyến tỉnh và y tế phổ cập tuyến cơ sở đi đôi với khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập, từng bước đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân. Các cơ sở khám, chữa bệnh y học cổ truyền phát triển sâu rộng, chất lượng được nâng lên theo hướng Đông - Tây y kết hợp.
Các cấp luôn quan tâm huy động nguồn lực triển khai khá đồng bộ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng bảo trợ xã hội, người có công, hộ nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng khó khăn được cải thiện. Các chương trình, dự án và nguồn lực đầu tư được lồng ghép có hiệu quả làm cho công tác giảm nghèo bền vững hơn; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 7,84% năm 2011 giảm còn 2,5% cuối năm 2015.
3- Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và quan hệ đối ngoại
Các cấp ủy đảng, chính quyền luôn quan tâm thực hiện đồng bộ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh.  Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được thực hiện thường xuyên.
Hoạt động của khu vực phòng thủ ngày càng đi vào chiều sâu, vững chắc, nhất là ở các khu vực trọng điểm biên giới, miền núi. Tổ chức thành công diễn tập sẵn sàng xử lý các tình huống trên biên giới An Giang, rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu, được cấp trên đánh giá cao.
Các đề án phòng thủ dân sự, đề án xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt trong phòng, chống “diễn biến hòa bình”, xây dựng các đội đặc nhiệm hoạt động giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn giao thông được triển khai thực hiện có hiệu quả. Đấu tranh làm thất bại các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, không để xảy ra đột xuất bất ngờ.
Công tác đối ngoại về quốc phòng, an ninh mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, bảo đảm an ninh biên giới, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; đoàn kết dân tộc, giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số, dân cư biên giới được quan tâm hơn; góp phần giữ vững an ninh biên giới, phòng, chống các hoạt động chống phá và các loại tội phạm từ xa; thực hiện tốt nghĩa vụ tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ.
Lực lượng vũ trang trong tỉnh được kiện toàn, chất lượng tổng hợp, sẵn sàng chiến đấu được nâng lên. Duy trì có hiệu quả việc phối hợp hoạt động giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự - an toàn xã hội, an ninh biên giới, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
4- Công tác quản lý nhà nước
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện tốt vai trò giám sát các hoạt động của bộ máy hành chính địa phương. Năng lực và trách nhiệm của hội đồng nhân dân trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương được nâng lên. Ủy ban nhân dân các cấp chủ động trong quyết định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thuộc thẩm quyền, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan hành chính địa phương .
Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền về tầm quan trọng của công tác tư pháp chuyển biến tích cực. Sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và giữa các cơ quan tư pháp với cấp ủy đảng, chính quyền được duy trì, góp phần thực hiện tốt yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị.
Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tiếp tục đi vào nền nếp. Ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan hành chính đã phát huy hiệu quả tích cực. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nhiều năm liền thuộc nhóm điều hành tốt so cả nước .
Công tác phòng, chống tham nhũng được các cấp, các ngành chú trọng, các giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí được thực hiện thường xuyên và đồng bộ, góp phần làm chuyển biến nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, tạo được sự đồng tình trong nhân dân.
5- Công tác vận động quần chúng
Nhận thức của hệ thống chính trị và nhân dân về vai trò, vị trí công tác dân vận được nâng lên; nhiều phong trào hành động cách mạng được nhân dân đồng thuận và tích cực tham gia ; một số mô hình hay về công tác dân vận được nhân rộng.
Hệ thống Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp tiếp tục được củng cố, kiện toàn, từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên ngày càng đi vào thực chất; qua các phong trào nhiều đoàn viên, hội viên ưu tú được giới thiệu kết nạp vào Đảng.
Các chủ trương, chính sách về tôn giáo, dân tộc được thực hiện thường xuyên. Nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, người có đạo được triển khai có hiệu quả. Mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền, chức sắc, tín đồ tôn giáo ngày càng gắn bó. Vai trò của lực lượng nòng cốt, người có uy tín được phát huy tốt trong các phong trào thi đua yêu nước và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần giữ vững ổn định an ninh - chính trị, trật tự - an toàn xã hội trên địa bàn.
6- Công tác xây dựng Đảng
Các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở đã nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần củng cố, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Nhiều khuyết điểm, hạn chế của tập thể và cá nhân cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình được cầu thị tiếp thu và nghiêm túc sửa chữa, khắc phục, có chuyển biến rõ rệt. Các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tình trạng thiếu dân chủ, mất đoàn kết nội bộ được cảnh báo, ngăn ngừa. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ được đẩy mạnh. Một số vụ việc phức tạp, kéo dài được tập trung chỉ đạo xử lý, tạo sự đồng tình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là dịp để toàn hệ thống chính trị của tỉnh nghiêm túc đánh giá lại những việc đã làm được, chưa được để có những hoạch định mới trong thời gian tới tốt hơn, nhằm tiếp tục tạo sự tin tưởng, đồng thuận cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Công tác chính trị, tư tưởng được coi trọng. Nội dung, phương thức triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh có nhiều cải tiến. Công tác tuyên truyền, nắm thông tin và định hướng dư luận kịp thời hơn, giúp cán bộ, đảng viên thống nhất về tư tưởng và hành động, nêu cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác phản tuyên truyền, chống những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch được đẩy mạnh và kịp thời hơn. Thường xuyên nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội góp phần dự báo, đánh giá sát tình hình tâm trạng, tư tưởng của các tầng lớp nhân dân.
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng được quan tâm củng cố về tổ chức, đầu tư nguồn nhân lực, cơ sở vật chất; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công tác nghiên cứu khoa học từng bước được nâng lên.
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được kiện toàn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động có nhiều chuyển biến. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, tạo nguồn cán bộ được chú trọng, từng bước khắc phục tình trạng cục bộ, hẫng hụt cán bộ ; đội ngũ cán bộ ở cơ sở tiếp tục củng cố, nâng chất; công tác quản lý, sử dụng cán bộ và chính sách cán bộ được thực hiện tốt hơn; công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng. Công tác kết nạp đảng viên được chú trọng về chất lượng, đảm bảo về số lượng. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm đi vào nền nếp.
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp chuyển biến tích cực. Nội dung tập trung vào việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), những lĩnh vực, địa bàn trọng yếu, nhạy cảm, yếu kém, mất đoàn kết nội bộ. Tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng .
Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác nội chính, tư pháp và phòng, chống tham nhũng ngày càng được chú trọng. Nhiều chủ trương, chính sách trên lĩnh vực nội chính, cải cách tư pháp và phòng, chống tham nhũng được triển khai thực hiện kịp thời và đạt nhiều kết quả.
Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục đổi mới, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời, phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc. Các cấp ủy đảng đã ban hành nhiều quy chế, quy định về mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy với các tổ chức đảng. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, chất vấn trong Đảng.
Những kết quả đạt được có nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là: Đảng bộ tỉnh đã giữ vững truyền thống đoàn kết, phát huy dân chủ, sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành, khơi dậy được tiềm lực trong nhân dân và doanh nghiệp; luôn quan tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, coi trọng công tác vận động quần chúng, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong xã hội.
Mặt khác, tỉnh luôn được sự quan tâm lãnh đạo sâu sắc, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ; sự giúp đỡ trách nhiệm, hiệu quả của các bộ, ban, ngành Trung ương, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và các tỉnh, thành bạn.

II- HẠN CHẾ

Nhiều chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội IX thực hiện không đạt, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại so với 05 năm trước. Trên một số lĩnh vực, An Giang đang tụt hậu so với các tỉnh trong khu vực. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp còn chậm. Các sản phẩm chủ lực của tỉnh có sức cạnh tranh kém, chưa xây dựng được thương hiệu. Khoa học - công nghệ chưa ứng dụng mạnh mẽ vào các lĩnh vực sản xuất. Công nghiệp chậm phát triển. Dịch vụ, du lịch chưa khai thác hết thế mạnh. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ. Môi trường đầu tư kém hấp dẫn, chưa huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Công tác xã hội hoá, việc đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công, dịch vụ công còn chậm. Thiếu cơ chế, chính sách để nhân rộng những mô hình có hiệu quả.
Đào tạo chưa gắn với giải quyết việc làm và nhu cầu của thị trường lao động, dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động. Nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn cao phục vụ các ngành, lĩnh vực trọng yếu (khoa học - công nghệ, thương mại - dịch vụ, quản lý nhân lực...) chưa đáp ứng yêu cầu.
Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập; số trường chuẩn quốc gia đạt thấp; tỷ lệ học sinh bỏ học có giảm nhưng chưa bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm, nhưng nguy cơ tái nghèo còn cao, hộ nghèo mới phát sinh tăng. Đời sống một bộ phận người lao động, người nghèo, đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách xã hội vẫn còn khó khăn. Tình trạng ô nhiễm môi trường, sạt lở bờ sông đang gây nhiều bức xúc.
Tình hình an ninh - chính trị, nhất là tuyến biên giới, vùng dân tộc tuy được quan tâm nhưng còn nhiều tiềm ẩn phức tạp. Tội phạm, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, nhất là tội phạm hình sự, tội phạm kinh tế, tội phạm trong thanh thiếu niên, tai nạn giao thông.
Hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp còn hạn chế trong thực hiện chức năng giám sát và chất vấn. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) sụt giảm. Tình trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài còn diễn biến phức tạp.
Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội một số nơi chậm được cải tiến, còn biểu hiện “hành chính hóa”; tham mưu, đề xuất xử lý những vấn đề bức thiết trong nhân dân còn hạn chế; công tác phát triển và quản lý đoàn viên, hội viên chưa chặt chẽ.
Một số tập thể, cá nhân chậm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Công tác tuyên truyền, phản tuyên truyền có lúc, có nơi chưa kịp thời, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhiều nơi chưa đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, chưa trở thành việc làm thường xuyên.
Công tác tổ chức cán bộ ở một số mặt chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Việc quản lý, đánh giá cán bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thiếu sâu sát; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn hạn chế; hình thức tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp chậm đổi mới. Công tác xây dựng Đảng và sinh hoạt đảng ở loại hình doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc, khó khăn, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng chưa rõ nét. 
Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chưa cao. Việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác nội chính còn chậm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu.
Phương thức lãnh đạo của một số tổ chức đảng chưa tốt, vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo; chưa chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của cấp trên và cấp mình. Phong cách, lề lối làm việc chậm đổi mới; hội họp còn nhiều, ít hiệu quả.
Nguyên nhân những hạn chế nêu trên về chủ quan là: năng lực lãnh đạo, điều hành của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có mặt chưa theo kịp yêu cầu, chưa tập trung nguồn lực đúng mức cho các lĩnh vực then chốt; chậm tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp; việc cụ thể hóa chủ trương của Trung ương, của tỉnh chưa kịp thời làm tụt mất thời cơ phát triển; chủ trương ban hành nhiều nhưng chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát để kịp thời điều chỉnh những yếu kém trong việc tổ chức thực hiện.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính còn hạn chế; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Vai trò, trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu ở một số ngành, địa phương chưa tốt.
Công tác dự báo tình hình, tầm nhìn chiến lược trong xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu của tỉnh chưa sát với thực tế, tính khoa học chưa cao. Tuy có nhiều chủ trương đột phá, song việc triển khai thực hiện vẫn là khâu yếu kém.
Bên cạnh đó, An Giang có đặc điểm là: tỉnh nông nghiệp, dân số đông, nhiều dân tộc, tôn giáo; đường biên giới dài với nhiều khó khăn phức tạp và tình huống nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, chính trị… ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông chậm được đầu tư.
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ tỉnh trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; rào cản phi mậu dịch ngày càng nhiều cùng với xuất hiện cạnh tranh mới đã ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu hai mặt hàng chủ lực của tỉnh là cá tra và lúa gạo.
Môi trường kinh doanh chưa thật sự thuận lợi; cơ chế, chính sách đảm bảo cho doanh nghiệp, người dân kinh doanh còn nhiều hạn chế.
Một số chính sách của Trung ương ban hành chậm, chưa sát với thực tế, nhất là những chính sách trên lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của địa phương.

III- KINH NGHIỆM
Thứ nhất, giữ vững đoàn kết nội bộ trên cơ sở đấu tranh thống nhất ý chí và hành động có ý nghĩa quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi trọng việc xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, khoa học kỹ thuật và đội ngũ doanh nhân phục vụ yêu cầu phát triển của tỉnh trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
Thứ ba, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải gắn chặt với quốc phòng - an ninh, đặc biệt là an ninh biên giới.
Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân để phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng nội lực, nhất là nguồn lực của xã hội, đồng thời tranh thủ tối đa ngoại lực.

Phần II
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU
NHIỆM KỲ 2015 - 2020

I- DỰ BÁO TÌNH HÌNH
1- Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới
Tình hình chính trị thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Các tranh chấp, xung đột, bạo loạn, can thiệp, khủng bố, chiến tranh cục bộ sẽ diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Kinh tế thế giới sẽ phục hồi nhưng chậm và gặp nhiều khó khăn, thách thức, cạnh tranh giữa các nước ngày càng gay gắt, xuất hiện nhiều liên kết kinh tế mới. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế được tiếp tục đẩy mạnh, các quốc gia sẽ trở thành các “mắc, khâu” trong hệ thống sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Đông Nam Á tiếp tục là khu vực phát triển năng động, đồng thời là khu vực cạnh tranh và tranh chấp quyết liệt giữa một số nước lớn, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo, nhất là Biển Đông có khả năng sẽ tiếp tục gay gắt, ASEAN sẽ trở thành cộng đồng duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, song đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Trong nước, thế và lực cùng sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên. Năm năm tới, nước ta thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định tự do thương mại mới, hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Kinh tế lấy lại đà tăng trưởng nhưng còn nhiều khó khăn, thách thức: kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, nợ xấu cao, bội chi ngân sách còn lớn; phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế Trung Quốc trong khi kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng chậm lại. Các nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, trong đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất đáng lo ngại.
Tình hình thế giới, trong nước nêu trên tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi đi liền khó khăn, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và có những chủ trương, giải pháp thích ứng với những hành động quyết liệt để phát triển nhanh hơn và ổn định hơn.
2- Thuận lợi và thách thức
2.1- Thuận lợi
An Giang là một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm của khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Chính phủ đã có quy hoạch và từng bước có cơ chế, chính sách để thúc đẩy cho vùng kinh tế trọng điểm phát triển; một số công trình giao thông lớn được Trung ương đầu tư (cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, cầu Long Bình…) là tiền đề để tỉnh khai thác và phát huy nội lực.
Trong xu thế hội nhập, An Giang tiếp giáp với Campuchia có cửa khẩu quốc tế, quốc gia đường bộ và đường thủy, là cửa ngõ của trục Đông - Tây giao thương giữa đồng bằng Sông Cửu Long và các nước Đông Nam Á; cùng với truyền thống phát triển thương mại - dịch vụ sẽ thuận lợi quan trọng cho phát triển thương mại, dịch vụ và kinh tế biên mậu. Trong tương lai gần, Việt Nam sẽ tham gia Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ mở ra cho tỉnh có nhiều cơ hội về thị trường, nhất là các mặt hàng nông nghiệp.
Là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, có tài nguyên nước và đất phong phú, cùng với kinh nghiệm canh tác, khả năng ứng dụng khoa học - công nghệ và sự nhạy bén với thị trường của nông dân tạo ra thế mạnh về nông nghiệp với hai sản phẩm mang tầm quốc gia là lúa và cá tra… là lợi thế so sánh để An Giang trở thành trung tâm nông nghiệp của vùng đồng bằng Sông Cửu Long và cả nước.
Nhiều di tích văn hóa, lịch sử, cùng với cảnh quan đa dạng, phong phú so các tỉnh trong khu vực; mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp có chất lượng và truyền thống thể thao thành tích cao là tiền đề để tỉnh trở thành một trong những trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch của vùng.
2.2- Thách thức
Một số nguồn lực quan trọng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh (đất đai, khoáng sản, tài sản công, trình độ, kỹ thuật canh tác, quản lý…) đã được khai thác tối đa theo chiều rộng, nên thời gian gần đây tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh chậm lại, nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng đạt ở mức trung bình, có chỉ tiêu thấp hơn bình quân khu vực, trong khi yêu cầu phát triển nhanh để theo kịp mức trung bình của cả nước. Ngược lại, một số lĩnh vực (du lịch, kinh tế biên giới…) thiếu quan tâm đầu tư đúng mức nên phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông chưa được đầu tư đúng mức, sẽ hạn chế tốc độ phát triển.
Nông nghiệp là thế mạnh nhưng vẫn còn sản xuất nhỏ và phân tán, đất đai manh mún, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu; ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều thách thức.
Thu nhập của nông dân còn thấp so với bình quân thu nhập chung. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng thiếu bền vững, hộ nghèo trong đồng bào dân tộc còn cao.

II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ, CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN 5 NĂM (2015 - 2020)
1- Quan điểm phát triển
Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực, mục tiêu của phát triển. Phát triển kinh tế phải gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định biên giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững.
An Giang là tỉnh nông nghiệp và có thế mạnh về thương mại, do đó, nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế được xác định theo thứ tự ưu tiên: “nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, công nghiệp - xây dựng”. Trong đó, nông nghiệp và du lịch là hai mũi nhọn, phát triển theo hướng không ngừng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh và xây dựng nền kinh tế xanh tạo nền tảng để phát triển thương mại - dịch vụ, công nghiệp chế biến và xây dựng.
Kết hợp tốt giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với quá trình đô thị hóa, mở rộng các khu đô thị, các khu công nghiệp, dịch vụ năng động; đảm bảo cho mọi người dân có cơ hội tham gia và hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân dân và doanh nghiệp trong đầu tư phát triển và thực thi chính sách. Cơ cấu lại vốn đầu tư theo hướng giảm vốn nhà nước, tăng vốn xã hội. Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động tự chủ phù hợp, từng bước hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; chuyển các dịch vụ công sang tư nhân ở lĩnh vực mà hoạt động tư nhân có hiệu quả.
Phát triển kinh tế - xã hội của An Giang được đặt trong sự tương tác với các nước, vùng miền và nhất là khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Do vậy, việc phối hợp và liên kết với các địa phương trong vùng trên tất cả các lĩnh vực trọng yếu nhằm tạo thế liên hoàn và chủ động hội nhập quốc tế là một nhu cầu tất yếu để phát triển bền vững.
2- Mục tiêu chung
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ và hiệu quả quản lý của chính quyền, phát huy dân chủ, kỷ cương, khai thác mạnh mẽ lợi thế trong liên kết vùng và lợi thế so sánh của địa phương, huy động nguồn lực xã hội, tập trung phát triển nông nghiệp theo chiều sâu tạo nền tảng phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và công nghiệp nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của An Giang bằng mức trung bình của cả nước, đến năm 2020 quy mô nền kinh tế nằm trong nhóm khá của khu vực đồng bằng Sông Cửu Long.
3- Các khâu đột phá
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập, đặc biệt là nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đổi mới mạnh mẽ khâu tuyển chọn, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ chủ chốt các cấp.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung khâu giảm thủ tục hành chính nhằm cải thiện môi trường thu hút đầu tư.
Đầu tư và ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Tập trung cho lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến.
4- Chỉ tiêu phát triển chủ yếu (15 chỉ tiêu)
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân 05 năm đạt 7%.
(2) GRDP bình quân đầu người (giá thực tế) đến năm 2020 đạt 48,3 triệu đồng/người.
(3) Tổng vốn đầu tư xã hội 05 năm đạt khoảng 148.000 tỷ đồng.
(4) Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 6,05 tỷ USD.
(5) Thu ngân sách 05 năm đạt 31.985 tỷ đồng.
(6) Tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi đến năm 2020: mẫu giáo đạt 70%, tiểu học đạt 100%; trung học cơ sở đạt 80%; trung học phổ thông và tương đương đạt 50%.
(7) Trường học đạt chuẩn quốc gia đến năm 2020 đạt 50%.
(8) Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân đến năm 2020 đạt 65%.
(9) Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn 2016 - 2020) bình quân 1,5%/năm.
(10) Quy mô dân số đến năm 2020 khoảng 2.175.000 người.
(11) Số bác sĩ trên 01 vạn dân đến năm 2020 đạt 08 bác sĩ/vạn dân.
(12) Tỷ lệ bảo hiểm y tế toàn dân đến năm 2020 đạt 80%.
(13) Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch, nước hợp vệ sinh 90%.
(14) Có 60 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới.
(15) Bình quân mỗi năm kết nạp 3.000 đảng viên, đạt tỷ lệ 3,13% dân số.

III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1- Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả, năng lực cạnh tranh gắn với cơ cấu lại nông nghiệp, công nghiệp; đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới
Để nông nghiệp đáp ứng hội nhập thành công, yêu cầu sản phẩm nông nghiệp phải đảm bảo chất lượng, giá cả cạnh tranh. Đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp theo phương châm “Lấy tổ chức lại sản xuất làm cơ sở, lấy ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ làm khâu đột phá, lấy thị trường làm tiền đề và mục tiêu”.
Chuyển từ tư duy phát triển theo diện tích, năng suất, sản lượng sang tư duy về giá trị và hiệu quả kinh tế đạt được trên đơn vị diện tích đất, từ đó, cơ cấu lại các sản phẩm nông nghiệp theo thị trường và lợi thế so sánh theo Nghị quyết số 09-NQ/TU của Tỉnh ủy về “Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” và Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh. Phối hợp với các địa phương trong vùng thực hiện có hiệu quả Đề án “Liên kết vùng đồng bằng Sông Cửu Long phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, trái cây, thủy sản và nâng cao năng lực nông dân”. Tập trung 04 nhóm sản phẩm chiến lược của tỉnh là gạo, cá, rau màu và cây dược liệu, trong đó, cấu trúc lại cây lúa, con cá để thích ứng với thị trường. Xây dựng trung tâm giống lúa, cá, rau màu tầm khu vực. Huy động nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch.
Tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, khuyến khích thành lập các doanh nghiệp nông nghiệp, các trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác, tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao, khu (vùng) nông nghiệp công nghệ cao và khu công nghiệp - nông nghiệp, hình thành các vùng nông nghiệp quy mô lớn, khép kín. Hoàn thiện, phát triển các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị (chiều dọc và ngang) để có mối liên kết bền vững; nhân rộng mô hình “Cánh đồng lớn” trên nhiều sản phẩm. Có chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác, đặc biệt là chính sách về cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực, đất đai, tài chính - tín dụng, khoa học - công nghệ và thị trường; ưu đãi đối với tổ chức kinh tế hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát triển mạnh công nghiệp bảo quản, chế biến sâu nông sản, dược liệu; khuyến khích phát triển các loại hình công nghiệp chế biến có hàm lượng khoa học, công nghệ nhằm tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm chủ lực của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2020 phần lớn các sản phẩm nông nghiệp đều qua chế biến trước khi ra thị trường. Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, phát triển tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống ở các địa phương. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn. Có giải pháp đột phá trong việc huy động các nguồn lực đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu trong xây dựng nông thôn mới.
Rà soát, bổ sung cơ chế chính sách tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng nguồn lực cho Quỹ đầu tư phát triển hỗ trợ doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển lực lượng doanh nhân, doanh nghiệp theo chuẩn toàn cầu hóa, phấn đấu hình thành một số doanh nghiệp lớn, có khả năng vươn ra thị trường quốc tế với vai trò đầu tàu, dẫn dắt, đặt hàng cho sản xuất nông sản và thủy sản. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp ở vùng trọng điểm biên giới, thu hút mạnh đầu tư của các doanh nghiệp.
2- Phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch
Xây dựng chiến lược thị trường cho sản phẩm lúa gạo, cá tra và rau màu. Đa dạng hóa các loại hình thương mại và sản phẩm phù hợp thị trường nội địa và xuất khẩu, khai thác có hiệu quả thị trường nông thôn. Chuẩn bị các điều kiện sản xuất, đổi mới mô hình quản trị, ứng dụng khoa học - công nghệ, xây dựng thương hiệu cạnh tranh có hiệu quả khi nước ta tham gia Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC); phát triển mở rộng các loại hình dịch vụ, chú ý phát triển dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: viễn thông, tài chính, ngân hàng; nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ vận tải và tiến tới xây dựng dịch vụ hậu cần (logistics), gắn kết với Dự án “Luồng cho tàu vận tải biển có trọng tải lớn vào sông Hậu” để đẩy mạnh giao thương hàng hóa và dịch vụ.
Quy hoạch ngành bán lẻ và bán buôn phù hợp với xu thế phát triển; hỗ trợ, kêu gọi đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, trước mắt, tập trung cho các trung tâm thương mại, các chuỗi siêu thị bán buôn, bán lẻ, hệ thống các chợ. Khuyến khích doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp nước ngoài liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp của tỉnh xây dựng và phát triển hệ thống phân phối hiện đại, từ đó, tăng cường khả năng mở rộng thị trường trong và ngoài nước cho các sản phẩm hàng hóa có lợi thế của tỉnh.
Phát huy vai trò trung tâm của trục Đông - Tây với hai cửa khẩu quốc tế, kết nối đồng bằng Sông Cửu Long và thành phố Phnôm Pênh (Campuchia) đẩy mạnh giao thương, phát triển các loại hình dịch vụ và công nghiệp khu vực biên giới.
Chính quyền phối hợp với các hiệp hội liên quan xây dựng lực lượng nghiên cứu, phân tích, phổ biến thông tin thị trường; hỗ trợ các doanh nghiệp, các địa phương xây dựng thương hiệu, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật vào sản xuất và chế biến; hỗ trợ pháp lý phát triển thị trường. Hình thành các tổ chức dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác thị trường trong và ngoài nước.
Xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể các điểm, loại hình, sản phẩm và tua, tuyến du lịch phù hợp với tiềm năng và lợi thế so sánh của tỉnh. Kiện toàn bộ máy quản lý, tiến tới xây dựng đề án đề nghị Chính phủ cho phép thành lập Sở Du lịch. Chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch. Huy động các nguồn lực, tăng tỷ trọng đầu tư cho du lịch. Xây dựng khu vực Núi Sam, Núi Cấm và cù lao Ông Hổ (Mỹ Hòa Hưng) trở thành khu, điểm du lịch quốc gia, của vùng; xây dựng các khu vui chơi, giải trí quy mô lớn, hiện đại ở thành phố Long Xuyên, tiến tới kết nối bốn khu du lịch trọng điểm của tỉnh theo thứ tự ưu tiên Châu Đốc - Long Xuyên - Núi Cấm - Óc Eo; phát triển các dịch vụ khách sạn, nhà hàng. Tăng cường liên kết vùng, trong nước và ngoài nước trên tất cả các lĩnh vực để khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh du lịch của tỉnh.
3- Đầu tư và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Ưu tiên đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Chú trọng phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp sạch với quy mô công nghiệp. Tăng hàm lượng khoa học - công nghệ trong các sản phẩm chủ lực của tỉnh, tạo nhiều sản phẩm mới, sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo kết quả đảm bảo đầu ra theo nguyên tắc công khai, minh bạch. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ.
Thực hiện tốt cơ chế chính sách thúc đẩy xã hội hóa hoạt động khoa học - công nghệ. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập các quỹ về phát triển khoa học - công nghệ, tham gia phát triển các liên kết, hợp tác công - tư trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các sản phẩm khoa học và công nghệ. Bảo hộ và xử lý nghiêm các vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ. Đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng các nhà khoa học; phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
4- Chủ động hội nhập quốc tế, tập trung hội nhập kinh tế quốc tế 
Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 31/NQ-CP, ngày 13-5-2014 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của mọi người về hội nhập quốc tế, về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, các cam kết hội nhập kinh tế của Việt Nam, chỉ rõ những thời cơ và thách thức, nhất là các thỏa thuận thương mại tự do (FTA), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, kiện toàn ban chỉ đạo và các tổ chức có liên quan; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ có trình độ đáp ứng yêu cầu hội nhập, đặc biệt về ngoại ngữ, pháp luật quốc tế, các kiến thức sâu về thương mại quốc tế, có khả năng phân tích và dự báo.
Xây dựng kế hoạch triển khai chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2020 phù hợp với định hướng chung và của địa phương. Đẩy mạnh công tác phát triển thị trường, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, thu hút nguồn lực từ bên ngoài, nâng cao chất lượng công tác dự báo thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trên cơ sở phối hợp tốt với bộ, ngành Trung ương, chủ động tiếp xúc và làm việc với tham tán thương mại ở các đại sứ quán Việt Nam, với các cơ quan đại diện nước ngoài, các cơ quan hợp tác phát triển quốc tế, các tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước…
Song song với hội nhập kinh tế phải coi trọng hợp tác chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, khoa học - công nghệ với các nước, nhất là tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác với các tỉnh giáp biên của Vương quốc Campuchia.
5- Huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực của xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô thị
Xác định đúng chức năng nhiệm vụ của chính quyền trong nền kinh tế thị trường, phân định lĩnh vực Nhà nước đầu tư từ ngân sách, khuyến khích và mở rộng việc đầu tư từ nguồn vốn của các thành phần kinh tế. Đa dạng hóa hình thức đầu tư; tạo điều kiện và huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư và kinh doanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô thị.
Hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy hoạch về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa thành thị và nông thôn; xây dựng kế hoạch, lộ trình nâng cấp các đô thị trọng điểm có sức lan tỏa (nâng các thị trấn Núi Sập, An Châu, Cái Dầu, Chợ Mới, Phú Mỹ lên đô thị loại IV; nâng huyện Tịnh Biên lên thị xã và nâng thành phố Long Xuyên lên đô thị loại I…); tiếp tục thực hiện Đề án giải tỏa nhà trên kênh, rạch nhằm đảm bảo môi trường, nhất là ở hai thành phố Long Xuyên và Châu Đốc.
Đầu tư hạ tầng giao thông có trọng tâm, đồng bộ liên kết vùng, miền, khu vực biên giới, vùng khó khăn và kết hợp xây dựng nông thôn mới, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy giao thương và phát triển du lịch. Kiến nghị Trung ương sớm đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Cần Thơ - Châu Đốc; tuyến N1 từ Châu Đốc đến Tân Châu, Hồng Ngự; tuyến đường nối từ thị trấn Núi Sập (huyện Thoại Sơn) đến thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang). Xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất nông nghiệp phục vụ việc cấu trúc lại, ứng dụng công nghệ cao và thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng kết cấu hạ tầng để khai thác tiềm năng và thế mạnh du lịch.
6- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, tạo môi trường pháp lý, cơ chế chính sách cạnh tranh công bằng để các thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
Nâng cao năng lực, hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước. Xây dựng chính quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp.
Tiếp tục thực hiện Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư, thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
Đẩy mạnh cải cách hành chính. Duy trì và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Tiếp tục rà soát giảm thủ tục hành chính. Thực hiện tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại; nâng cao trách nhiệm, xây dựng phong cách, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; giữ nghiêm kỷ luật tài chính, tiết kiệm ngân sách chi cho hoạt động hành chính; ứng dụng mạnh công nghệ thông tin, từng bước xây dựng chính quyền điện tử và xây dựng trung tâm tiếp nhận và trả kết quả của tỉnh; củng cố kỷ cương hành chính nhà nước.
Tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Trung ương, đồng thời rà soát, điều chỉnh, bổ sung những chủ trương, chính sách, cơ chế mới của tỉnh tạo ra môi trường công bằng, minh bạch trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, nhằm đột phá trong phát triển nội lực và thu hút, tranh thủ ngoại lực.
Thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập, giao quyền tự chủ và quản trị theo cơ chế doanh nghiệp. Chuyển từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng và từ cấp kinh phí cho đơn vị sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng. Đối với dịch vụ công thiết yếu như giáo dục, y tế do Nhà nước đang kiểm soát giá phải công khai, minh bạch các yếu tố giá thành, tính đúng, tính đủ chi phí và thực hiện giá thị trường theo lộ trình phù hợp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo, dân tộc thiểu số và vùng khó khăn. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ công, nhất là hình thức cổ phần hóa, hợp tác công - tư. Đảm bảo công bằng giữa đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập.
7- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục - đào tạo
Thực hiện tốt nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo từ nội dung, phương pháp, cách đánh giá nhằm phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất, thể chất và kỹ năng sống của học sinh, người học. Nâng cao kiến thức, tay nghề chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề; phát huy tư duy sáng tạo, năng lực nghiên cứu ở bậc đại học.
Tập trung xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là các trường đại học, cao đẳng, trung cấp để phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, ưu tiên vùng dân tộc, vùng khó khăn. Kiện toàn và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, đẩy mạnh giao quyền tự chủ về tổ chức, tài chính, chuyên môn cho các trường học; thực hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa giáo dục. Ngành Giáo dục và Đào tạo tăng cường quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, kiểm định, đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp phân luồng đào tạo nghề sau trung học, đào tạo sau đại học. Trường Đại học An Giang tăng cường liên kết với các viện, trường, trung tâm để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho nông nghiệp và du lịch phục vụ yêu cầu phát triển của tỉnh.
8- Phát triển văn hóa, xây dựng con người phát triển toàn diện
Xây dựng nền văn hóa và con người An Giang phát triển toàn diện theo Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI); xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở cơ sở; đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng nông thôn mới; xây dựng mạng lưới thiết chế văn hóa, nhất là ở cơ sở theo Quyết định số 88/QĐ-TTg, ngày 09-01-2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học, nghệ thuật) giai đoạn 2012 - 2020”.
Khuyến khích cộng đồng dân cư xây dựng lòng tin, hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ các giá trị đạo đức và tiến bộ xã hội. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển văn hóa, thể thao.
Xây dựng và hoàn thiện các trung tâm đào tạo vận động viên trẻ, năng khiếu, nâng cao chất lượng thể thao thành tích cao, phát triển phong trào thể dục - thể thao quần chúng.
9- Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân
Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết kịp thời những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội. Quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội; hạn chế tác động tiêu cực của sự phân hóa giàu - nghèo, giữa đô thị với nông thôn, giữa các dân tộc với nhau.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông thôn sang thành thị, từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực thương mại - dịch vụ và công nghiệp, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Giảm nghèo bền vững với cách tiếp cận giảm nghèo đa chiều, gắn với dạy nghề, giải quyết việc làm, nâng cao tỷ lệ đưa người lao động đi làm việc ở những thị trường lao động chất lượng cao. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm sóc người có công, gia đình thương binh, liệt sĩ. Thực hiện tốt bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ, các quyền trẻ em, đảm bảo cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được bảo vệ, chăm sóc; tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em.
Kiện toàn, nâng cao chất lượng mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở, sắp xếp, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ y tế. Đầu tư xây dựng, hoàn chỉnh, nâng cấp hệ thống cơ sở y tế toàn tỉnh. Phát triển nguồn nhân lực y tế; mở rộng các hình thức đào tạo, đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng cho các cơ sở y tế. Kiện toàn, nâng cao năng lực mạng lưới y tế dự phòng theo hướng hiện đại, đủ khả năng dự báo, giám sát, phát hiện và khống chế các dịch bệnh. Nâng cấp Trường Trung cấp Y tế lên Trường Cao đẳng Y tế.
Tuyên truyền, vận động và hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tăng tỷ lệ người lao động tham gia các loại hình bảo hiểm tự nguyện, đẩy nhanh tiến độ thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Thực hiện có hiệu quả chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
10- Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên, môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
Xây dựng, hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng quy hoạch, bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đất đai trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020. Kiên quyết thu hồi đất các dự án được giao nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác khoáng sản, ngăn chặn tình trạng khai thác không đúng quy định. Kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đánh bắt mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm. Hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất nông nghiệp, thủy sản. Thực hiện có hiệu quả Kế hoạch hành động của Tỉnh ủy về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của xâm nhập mặn do nước biển dâng, cũng như khan hiếm nguồn nước ngọt do các đập thủy điện ở thượng nguồn.
11- Tăng cường quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và công tác đối ngoại
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc; củng cố quốc phòng, an ninh kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các đề án, nhất là các công trình chiến đấu trên tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu vực phòng thủ. Sẵn sàng xử lý các tình huống trên tuyến biên giới An Giang cho phù hợp với diễn biến tình hình. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng tổng hợp lực lượng vũ trang, quan tâm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ có số lượng hợp lý.
Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động tội phạm, vi phạm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; giữ vững an ninh biên giới. Xây dựng lực lượng công an các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm qua biên giới, đặc biệt là tội phạm ma túy, buôn bán người, buôn lậu và gian lận thương mại.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại về quốc phòng - an ninh, xây dựng mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với chính quyền và các lực lượng vũ trang Campuchia. Kết hợp đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả giữa đối ngoại của cấp ủy, ngoại giao của chính quyền và đối ngoại nhân dân. Phấn đấu hoàn thành công tác phân giới cắm mốc đúng tiến độ.
12- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Phát huy dân chủ ở cơ sở, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về công tác dân vận, về xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, giải quyết kịp thời những bức xúc nổi lên ngay từ ở cơ sở...
Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu. Bố trí cán bộ có năng lực, uy tín, kinh nghiệm làm công tác dân vận; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ dân vận, nhất là cán bộ khối vận ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo.
Phát huy dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Phát động các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn trong các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang. Các địa phương, đơn vị phối hợp thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống thiên tai; kịp thời nắm chắc diễn biến tình hình, dư luận xã hội để có giải pháp phù hợp, nhất là đối với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhằm đảm bảo quốc phòng - an ninh và xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.
13- Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ
Đổi mới việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết, khắc phục tình trạng sao chép, rập khuôn, tập trung cho khâu tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả. Thường xuyên tổ chức việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt các quy định về phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả hoạt động tự phê bình, phê bình và chất vấn trong các kỳ họp của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp. Triển khai nghiêm túc, thiết thực việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo quy định.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ theo hướng thực hiện tốt cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài. Xây dựng đề án vị trí việc làm và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo hướng chuẩn hóa để quản lý, sử dụng biên chế sát với yêu cầu thực tế. Triển khai thực hiện đề án thi tuyển các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu cấp ủy đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh thực hiện chế độ kiêm nhiệm các chức danh phù hợp. Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp. Cấp ủy, thành viên cấp ủy cấp trên tăng cường kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt cấp dưới về khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Đảng, nhất là đối với các lĩnh vực nhạy cảm, các vụ việc nổi cộm, bức xúc mà dư luận quan tâm. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp đủ về số lượng và chất lượng.
Các cấp ủy đảng triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 72-KH/TU, ngày 02-10-2014 của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Quan tâm hơn nữa đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Phát huy vai trò tham mưu của ban cán sự đảng, đảng đoàn. Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng và ban hành các chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy. Chủ trương, nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện đảm bảo triển khai thực hiện; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra. Kiên quyết trong lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện, để đảm bảo chủ trương, nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.
*

*               *

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và dân tỉnh nhà đoàn kết một lòng, năng động, sáng tạo, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội, xây dựng quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng giàu đẹp.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH AN GIANG
Tiến tới đại hội đảng
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
36982066