Một số điểm sáng về tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2023
- Được đăng: Thứ tư, 11 Tháng 10 2023 15:37
- Lượt xem: 479
(TUAG)- Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, khó khăn nhiều hơn thuận lợi nhưng tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2023 của nước ta có nhiều điểm sáng tích cực.
Kinh tế thế giới 9 tháng năm 2023 đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều có mức tăng trưởng thấp do tổng cầu suy giảm; lạm phát đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; chính sách tiền tệ thắt chặt, nợ công thế giới đã tăng lên mức kỷ lục, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na phức tạp hơn, bất ổn địa chính trị, an ninh lương thực, thiên tai, biến đổi khí hậu… ngày càng gia tăng. Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 khả quan hơn so với đánh giá đầu năm do nhận định tăng trưởng 6 tháng cuối năm sẽ khá hơn nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng năm 2022 từ 0,1 đến 1 điểm phần trăm. So với dự báo trước đây, hầu hết các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng năm 2023 của khu vực Đông Nam Á và Việt Nam dựa trên việc cập nhật tình hình sản xuất trong nước và tác động của kinh tế, chính trị thế giới.
Trước những khó khăn, thách thức nêu trên, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Các giải pháp đã được tích cực thực hiện như: Giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; triển khai các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất, hỗ trợ doanh nghiệp; nâng thời hạn visa điện tử cho khách du lịch; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản; công tác an sinh xã hội được quan tâm kịp thời, thiết thực. Do đó, xu hướng tích cực hơn tiếp tục được duy trì và ngày càng rõ nét trong nhiều ngành và lĩnh vực. Một số điểm sáng về kinh tế – xã hội nước ta trong quý III và 9 tháng năm 2023 như sau:
(1) Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, khó khăn nhiều hơn thuận lợi nhưng tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2023 của nước ta duy trì đà tăng trưởng tích cực (quý I tăng 3,28%; quý II tăng 4,05%; quý III tăng 5,33%), bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,43%, đóng góp 9,16% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,41%, đóng góp 22,27%. Khu vực dịch vụ tăng 6,32%, đóng góp 68,57%, trong đó tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường đạt mức khá: Bán buôn, bán lẻ tăng 8,04%; vận tải kho bãi tăng 8,66%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,17%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,91%.
Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2023 (%).
(2) Sản xuất lúa vụ đông xuân, sản lượng một số cây ăn quả đạt khá so với cùng kỳ năm trước, chăn nuôi phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan nhờ tập trung nuôi thâm canh, siêu thâm canh và ứng dụng công nghệ cao.
Vụ lúa đông xuân 2023 được mùa, giá lúa tăng cao so với cùng kỳ năm trước[1]. Năng suất lúa đông xuân ước đạt 68,4 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước đạt 20,2 triệu tấn, tăng 213 nghìn tấn. Sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2023 của một số cây ăn quả có giá trị kinh tế cao tăng khá so với cùng kỳ năm trước do đến kỳ thu hoạch sản phẩm: Sầu riêng đạt 719,3 nghìn tấn, tăng 18,9%; cam đạt 1.079,8 nghìn tấn, tăng 6,1%; nhãn đạt 563,9 nghìn tấn, tăng 3,6%; xoài đạt 813,7 nghìn tấn, tăng 3%.
Trong 9 tháng năm 2023, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tăng 6,8%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tăng 6%; sản lượng trứng gia cầm tăng 5,6% ; sản lượng sữa tươi tăng 3,4%.
Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước 9 tháng năm 2023 tương đương cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán tăng 4%; sản lượng gỗ khai thác tăng 3,2%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng năm 2023 ước tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá tăng 3,1%; tôm tăng 4,7%.
(3) Sản xuất công nghiệp tiếp tục khởi sắc hơn, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2023 ước tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số sản xuất của ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 30,2%; dệt tăng 18,5%; sản xuất trang phục và sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất cùng tăng 13,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13%; sản xuất kim loại và sản xuất chế biến thực phẩm cùng tăng 12,5%; sản xuất thuốc lá tăng 11,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 10,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2023 so với cùng kỳ năm trước của một số ngành trọng điểm (%).
(4) Hoạt động thương mại dịch vụ trong tháng Chín sôi động và duy trì mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách tăng 13,1% và luân chuyển tăng 27,9%; vận chuyển hàng hóa tăng 14,6% và luân chuyển tăng 12,5%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng các năm 2019-2023.
(5) Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch đã phát huy hiệu quả, góp phần hoàn thành mục tiêu đón khách quốc tế năm 2023 của nước ta. Khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng năm 2023 ước đạt 8,9 triệu lượt khách, gấp 4,7 lần cùng kỳ năm 2022.
(6) Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội có xu hướng tăng cao, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tính đến 20/9/2023 tiếp tục là điểm sáng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn.
Trong quý III/2023, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 3,6%; quý II tăng 5,6%). Tính chung 9 tháng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 5,9%, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đạt 57,4% kế hoạch, tăng 23,5%.
Tính đến ngày 20/9/2023, cả nước có 2.254 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nước ngoài với số vốn đạt 10,23 tỷ USD, tăng 66,3% về số dự án và tăng 43,6% về số vốn so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 có 1.355 dự án, tăng 11,8% và vốn đăng ký đạt 7,12 tỷ USD, giảm 43%). Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 15,91 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng các năm 2019-2023 (Tỷ USD).
(7) Tính chung 9 tháng năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 21,68 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 6,9 tỷ USD), trong đó xuất siêu của một số mặt hàng: Điện thoại các loại và linh kiện 33,07 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 8,02 tỷ USD; thủy sản 4,68 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 3,08 tỷ USD; rau quả 2,72 tỷ USD; dây điện và cáp điện 585 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ giảm 16,8%; EU giảm 8,2%; ASEAN giảm 5,5%; Hàn Quốc giảm 5,1%.
(8) Lạm phát được kiểm soát theo mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9 tháng tăng 3,16%, thấp hơn mục tiêu 4,5% của cả năm 2023.
Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 9 và 9 tháng các năm giai đoạn 2019-2023 (%).
(9) Lao động có việc làm và thu nhập bình quân của người lao động 9 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.
Lao động có việc làm quý III/2023 ước tính là 51,3 triệu người, tăng 87,4 nghìn người so với quý trước và tăng 523,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tính chung 9 tháng năm 2023 ước đạt 51,2 triệu người, tăng 776 nghìn người.
Thu nhập bình quân của lao động quý III/2023 ước đạt 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 146 nghìn đồng so với quý trước và tăng 359 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước; tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 7 triệu đồng/tháng, tăng 451 nghìn đồng.
Tính đến ngày 19/9/2023, số tiền hỗ trợ đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 3,2 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là gần 3,1 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 6,4 nghìn tỷ đồng./.
P.TT
Kinh tế thế giới 9 tháng năm 2023 đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều có mức tăng trưởng thấp do tổng cầu suy giảm; lạm phát đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; chính sách tiền tệ thắt chặt, nợ công thế giới đã tăng lên mức kỷ lục, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na phức tạp hơn, bất ổn địa chính trị, an ninh lương thực, thiên tai, biến đổi khí hậu… ngày càng gia tăng. Các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 khả quan hơn so với đánh giá đầu năm do nhận định tăng trưởng 6 tháng cuối năm sẽ khá hơn nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng năm 2022 từ 0,1 đến 1 điểm phần trăm. So với dự báo trước đây, hầu hết các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng năm 2023 của khu vực Đông Nam Á và Việt Nam dựa trên việc cập nhật tình hình sản xuất trong nước và tác động của kinh tế, chính trị thế giới.
Trước những khó khăn, thách thức nêu trên, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Các giải pháp đã được tích cực thực hiện như: Giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; triển khai các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất, hỗ trợ doanh nghiệp; nâng thời hạn visa điện tử cho khách du lịch; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản; công tác an sinh xã hội được quan tâm kịp thời, thiết thực. Do đó, xu hướng tích cực hơn tiếp tục được duy trì và ngày càng rõ nét trong nhiều ngành và lĩnh vực. Một số điểm sáng về kinh tế – xã hội nước ta trong quý III và 9 tháng năm 2023 như sau:
(1) Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, khó khăn nhiều hơn thuận lợi nhưng tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2023 của nước ta duy trì đà tăng trưởng tích cực (quý I tăng 3,28%; quý II tăng 4,05%; quý III tăng 5,33%), bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,43%, đóng góp 9,16% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,41%, đóng góp 22,27%. Khu vực dịch vụ tăng 6,32%, đóng góp 68,57%, trong đó tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường đạt mức khá: Bán buôn, bán lẻ tăng 8,04%; vận tải kho bãi tăng 8,66%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,17%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,91%.
Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2023 (%).
(2) Sản xuất lúa vụ đông xuân, sản lượng một số cây ăn quả đạt khá so với cùng kỳ năm trước, chăn nuôi phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan nhờ tập trung nuôi thâm canh, siêu thâm canh và ứng dụng công nghệ cao.
Vụ lúa đông xuân 2023 được mùa, giá lúa tăng cao so với cùng kỳ năm trước[1]. Năng suất lúa đông xuân ước đạt 68,4 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước đạt 20,2 triệu tấn, tăng 213 nghìn tấn. Sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2023 của một số cây ăn quả có giá trị kinh tế cao tăng khá so với cùng kỳ năm trước do đến kỳ thu hoạch sản phẩm: Sầu riêng đạt 719,3 nghìn tấn, tăng 18,9%; cam đạt 1.079,8 nghìn tấn, tăng 6,1%; nhãn đạt 563,9 nghìn tấn, tăng 3,6%; xoài đạt 813,7 nghìn tấn, tăng 3%.
Trong 9 tháng năm 2023, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tăng 6,8%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tăng 6%; sản lượng trứng gia cầm tăng 5,6% ; sản lượng sữa tươi tăng 3,4%.
Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước 9 tháng năm 2023 tương đương cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán tăng 4%; sản lượng gỗ khai thác tăng 3,2%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng năm 2023 ước tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá tăng 3,1%; tôm tăng 4,7%.
(3) Sản xuất công nghiệp tiếp tục khởi sắc hơn, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2023 ước tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số sản xuất của ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 30,2%; dệt tăng 18,5%; sản xuất trang phục và sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất cùng tăng 13,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13%; sản xuất kim loại và sản xuất chế biến thực phẩm cùng tăng 12,5%; sản xuất thuốc lá tăng 11,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 10,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2023 so với cùng kỳ năm trước của một số ngành trọng điểm (%).
(4) Hoạt động thương mại dịch vụ trong tháng Chín sôi động và duy trì mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách tăng 13,1% và luân chuyển tăng 27,9%; vận chuyển hàng hóa tăng 14,6% và luân chuyển tăng 12,5%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng các năm 2019-2023.
(6) Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội có xu hướng tăng cao, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tính đến 20/9/2023 tiếp tục là điểm sáng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn.
Trong quý III/2023, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 3,6%; quý II tăng 5,6%). Tính chung 9 tháng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 5,9%, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đạt 57,4% kế hoạch, tăng 23,5%.
Tính đến ngày 20/9/2023, cả nước có 2.254 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nước ngoài với số vốn đạt 10,23 tỷ USD, tăng 66,3% về số dự án và tăng 43,6% về số vốn so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 có 1.355 dự án, tăng 11,8% và vốn đăng ký đạt 7,12 tỷ USD, giảm 43%). Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 15,91 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng các năm 2019-2023 (Tỷ USD).
(8) Lạm phát được kiểm soát theo mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9 tháng tăng 3,16%, thấp hơn mục tiêu 4,5% của cả năm 2023.
Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 9 và 9 tháng các năm giai đoạn 2019-2023 (%).
(9) Lao động có việc làm và thu nhập bình quân của người lao động 9 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.
Lao động có việc làm quý III/2023 ước tính là 51,3 triệu người, tăng 87,4 nghìn người so với quý trước và tăng 523,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tính chung 9 tháng năm 2023 ước đạt 51,2 triệu người, tăng 776 nghìn người.
Thu nhập bình quân của lao động quý III/2023 ước đạt 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 146 nghìn đồng so với quý trước và tăng 359 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước; tính chung 9 tháng năm 2023 đạt 7 triệu đồng/tháng, tăng 451 nghìn đồng.
Tính đến ngày 19/9/2023, số tiền hỗ trợ đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 3,2 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là gần 3,1 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 6,4 nghìn tỷ đồng./.
P.TT