Thi đua yêu nước
Người đi nối nhịp bờ vui
- Được đăng: Thứ sáu, 16 Tháng 9 2022 16:59
- Lượt xem: 737
(TUAG)- Về cù lao Ông Hổ (xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên), hỏi chú Nguyễn Văn Tri (dân địa phương hay gọi thân mật là chú Tám Tri), thì hầu như ai cũng biết. Chú “nổi tiếng” không chỉ bởi có 12 năm làm Chủ tịch UBND xã, mà bởi mấy mươi năm qua, từng ngõ ngách cù lao, từng khúc đường, cây cầu của xứ sở này đều ghi dấu bước chân của chú. Đến với người dân như bà con thân thuộc, lo nỗi lo chung của xã, trăn trở nỗi niềm chung của dân, chú tiên phong tìm cách và đi tháo gỡ những khó khăn ấy bằng tất cả tâm huyết, trí tuệ người đảng viên trên đất cù lao!
Năm 2010, khi đã ở tuổi 62, đương nhiệm Trưởng Ban quản lý Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chú Tám Tri nhận quyết định hưu trí sau hơn 32 năm công tác và 31 năm tuổi Đảng. Ngày làm việc cuối cùng trước khi chính thức bước vào tuổi “nghỉ ngơi”, đứng trên mảnh đất cù lao Ông Hổ thân yêu, nhìn dòng sông Hậu hiền hòa đỏ quạch phù sa, chú chiêm nghiệm lại đời mình, với một câu hỏi thường trực sau mỗi lần dậy lên ký ức. Rằng, mình đã làm được những gì cho xứ sở này?

Chú Nguyễn Văn Tri (đeo kính) trong buổi lễ khởi công xây dựng cầu bê tông nông thôn
Bởi, sinh ra và lớn lên, gần trọn đời mình gắn bó với mảnh đất cù lao Ông Hổ. Ngay từ những ngày đầu quê hương hoàn toàn giải phóng, chú đã sớm có mặt trong lực lượng thanh niên, đoàn viên của ấp. Hoạt động năng nổ, nhiệt tình, từ cán bộ thanh niên chú được Nhân dân bầu chọn làm Phó ấp, Trưởng ấp, rồi Phó Chủ tịch và dần dần được đề bạt giữ chức Chủ tịch UBND xã. Đây là khoảng thời gian xã Mỹ Hòa Hưng còn nhiều khó khăn, đò ngăn cách trở, đường xá đa phần là lộ đất với cầu khỉ tạm bợ. Nhìn những em học sinh ở ngọn rạch đi học vất vả, quần áo lấm lem mỗi mùa mưa, chú Tám Tri ý thức rằng phải xây dựng cầu đường khang trang thì mới hy vọng tạo ra sức bật cho xã nhà. Những chiếc cầu sắt đầu tiên được bắt, những đoạn đường nhựa hóa nông thôn từ một phần kinh phí được cấp và vận động xã hội hóa, dần dần ra đời, có một phần công sức và sự quyết tâm xây dựng của chú Tám Tri. Nỗi niềm “cầu đường” vừa mới được đặt những viên gạch đầu tiên thì năm 1987, trong đợt luân chuyển cán bộ, chú Tám Tri nhận quyết định điều động về làm Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động thị xã Long Xuyên. Không lâu sau, do đời sống khó khăn, các con đang tuổi đi học, cha mẹ già yếu, chú Tám Tri đành ngậm ngùi xin nghỉ việc, về đồng Ba Dầu làm ruộng nhưng vẫn giữ khí tiết của người cộng sản. Vẫn sinh hoạt Đảng đều đặn, lại tiếp tục đến với Nhân dân, nói lên tiếng nói của dân, giúp bà con viết từ cái đơn xin chở gạo đến tờ xin xác nhận hộ nghèo…
Ít năm sau, khi đồng chí Ba Danh về làm Bí thư Thị uỷ Long Xuyên, đã cho người đến Ba Dầu tìm gặp chú Tám Tri với lời nhắn rằng, “anh biết em là đứa sống vì dân, xã nhà đang cần người như em, hãy về giúp bà con mình có người chèo lái”. Sự tha thiết ấy không chỉ là lời của một người đứng đầu thị xã, mà còn là lời kêu gọi của Đảng, của Nhân dân. Nhận lời, ít hôm sau, chú Tám dắt díu vợ con trở về cù lao, tiếp tục làm việc tại Uỷ ban nhân dân xã, nơi đã quen dấu chân của chú hồi mấy năm trước, còn đó những ngổn ngang và trăn trở về một miền đất xanh tươi xứng danh quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
Một cuộc trở lại với Nhân dân, từ Chủ tịch Hội Nông dân, Phó Bí thư Đảng uỷ rồi trở lại với trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã (lần thứ 2). Người ta lại thấy chú Tám Tri đạp xe cọc cạch từ Uỷ ban đến phía đất lở đầu cồn hay tuốt trong ngọn dòng kinh nơi loe ngoe mấy căn nhà tạm bợ, có nhóm trẻ chưa thể đến trường. Mấy bận khiêng xe qua cầu khỉ, có khi khó quá phải để xe lại đầu cầu để qua với dân. Người ta kể rằng, “xe ông Tám Tri chưa bao giờ bị trộm, bởi dân xứ này ai cũng quen mặt chiếc xe ấy và ai ai cũng quý thương ông!”
Từ ngôi chợ, đến xóm dân cư bị xua đuổi vì xâm canh… đều được chú Tám đến tận nơi chăm lo và giải quyết cho ổn thỏa. Có người kể rằng, “ổng là đảng viên, cán bộ mà xắn quần lội nước đến hỏi thăm từ hũ gạo đến cuốn vở cho học sinh, không khác gì bà con thân thuộc!”. Có lẽ xuất thân và vươn lên từ nghèo khó, với đức tính gần gũi Nhân dân, gắn bó sâu đậm với quần chúng, lắng nghe, thấu hiểu và nêu cao trách nhiệm của người đảng viên, chú Tám Tri đã trở thành cầu nối thân thuộc giữa Đảng, chính quyền với Nhân dân cù lao Ông Hổ từ suốt mấy mươi năm qua.
Khi xã nhà dần vươn lên, điều kiện đã ổn định cũng là lúc Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng vừa hoàn thành. Lòng thành đối với Bác Tôn, cần phải có một người đứng đầu Ban Quản lý thật sự uy tín, có tâm và am hiểu nhiều về lịch sử, văn hoá. Nhìn quanh, và rồi Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch đã chọn chú Tám Tri. Vui vẻ bàn giao những tâm huyết quê hương của mình lại cho một thế hệ kế thừa đầy tiềm năng và sức sống, chú nhận nhiệm vụ mới, như người đại diện Nhân dân xứ cù lao và Đảng bộ, chính quyền nơi đây “gác đền” trên quê hương Bác Tôn.
Mười hai năm gắn bó với Khu lưu niệm, mãi đến tuổi 62, chú nhận được quyết định hưu trí của mình. Ngày lặng lẽ về nhà, chú mang nỗi niềm suy nghĩ, mình đã làm gì được cho dân cho đất cù lao?
Niềm trăn trở ấy dường như chưa bao giờ nguôi trong lòng người đảng viên từng trải qua ít nhiều những thăng trầm của thời gian và cuộc sống. Về hưu, nhưng được Nhân dân tin tưởng, chú nhận nhiệm vụ Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã. Đây lại là thời gian chú tiếp tục đến với Nhân dân. Người ta lại thấy hình chú Tám Tri lặn lội khắp nẻo cù lao, đến từng nhà dân nghèo, hỏi thăm ân cần. Đến với bà con bằng chút ít quà bánh, sữa, sách vở, thuốc men mà chú vận động được. Và khi về thì túi lòng lại trĩu nặng những trăn trở của xứ cù lao. Cầu hư, đường hư… đã khơi dậy nỗi niềm bao năm trong lòng chú.
Năm 2011, Mỹ Hoà Hưng được công nhận đạt chuẩn “Xã nông thôn mới”, tuy nhiên vẫn còn “nợ” lại đó 10 cây cầu gỗ đang xuống cấp, với lời hứa, phải xây dựng xong trước năm 2020! Với nguồn ngân sách có hạn, để xây dựng 10 cây cầu bê tông trên 8 tấn với giá thị trường trên 10 tỷ đồng/cây, quả là không phải việc dễ dàng! Lúc bấy giờ, chính quyền xã Mỹ Hoà Hưng đã nghĩ ngay đến chú Tám Tri – người “già làng” đầy uy tín và tâm huyết với địa phương.
Được chính quyền và Nhân dân trong xã tin tưởng, chú Tám Tri vui vẻ nhận lời. Nhưng nỗi lo trước mắt, là làm sao để nắm được kiến thức về cầu đường sâu hơn, thì mới có thể “chỉ huy công trình” đảm bảo chất lượng, mà không làm lãng phí niềm tin cũng như tiền của đóng góp của Nhân dân. Ý thức của một người đảng viên, nhớ lời Bác Hồ dạy “tuổi cao chí khí càng cao”, chú quyết tâm “đi học”. Dành ra mấy tháng ròng rã, người ta lại thấy chú Tám Tri lặn lội đi gặp gỡ nhiều chuyên gia, kiến trúc sư, thậm chí cả những người cất cầu nông thôn nổi tiếng trong và ngoài tỉnh để bắt đầu “học hỏi” một cách chi tiết, từ cách đóng cừ, làm dầm, đổ đà, chọn sắt… Trong những lần “đi học” ấy, dù cầu chưa xây dựng nhưng không ít người đã thấy được sự nhiệt huyết, chân thành và cầu thị của người cán bộ về hưu này, họ không ngần ngại đóng góp tiền xây cầu ngay, như góp thêm lửa cho chú Tám nung những viên gạch niềm tin ngày một rắn chắc hơn!
Khi đã có được những kiến thức cần thiết để xây dựng cầu nông thôn, chú đi vận động nhiều nơi, từ sức người đến sức của. Không lâu sau chú có được một nguồn quỹ, và sự đồng lòng giúp đỡ của đông đảo Nhân dân. Với sự giúp sức của chú Ba Khum - người nổi tiếng đi xây cầu nông thôn ở An Giang. Cuối năm 2011, chú Tám Tri đã cùng Nhân dân địa phương tiến hành xây dựng cây cầu nông thôn đầu tiên ở Mỹ Hòa Hưng bằng 100% vốn từ nguồn xã hội hoá. Hầu hết những người tham gia xây dựng cầu đều theo chữ “tính” của chú Tám Tri mà chung tay vào xây dựng. Hơn 100 người tự nguyện đóng góp công sức tham gia xây dựng cầu, với gần 1.000 ngày công trong suốt 2 tháng ròng rã.
Chưa bao giờ trên “công trường” của chú vắng tiếng cười vui lao động, sự thân tình và nhiệt huyết của đông đảo quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”. Và chú Tám Tri - Đảng viên lão thành ấy, dường như cũng hòa lẫn vào với Nhân dân, không câu nệ, lăng xả trộn hồ, đội mưa đổ đà chẳng khác gì một công nhân! Chính bầu không khí đầy nhiệt huyết “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” mà chú Tám Tri thắp lên ấy, đã lan tỏa đến mọi “công nhân trên công trường” tinh thần làm cầu đầy trách nhiệm và nhiệt huyết. Họ chăm chút từ cọng dây buộc khung thép đến cây sắt ruột dầm, để cho cầu được bền lâu, chất lượng nhất có thể; họ tiết kiệm từng xô hồ đến nắm cát, không quản khó nhọc, mặt kệ thời gian quá 5 giờ tan ca hành chính, miễn còn hồ dư là còn đổ, không để thừa ra phí phạm một chút mồ hôi công sức đóng góp nào của bà con! Bởi từ chị bán rau, chú bán vé số đến ông mù hành khất, ngày nào cũng ghé gửi vài chục ngàn để xây cầu, với niềm gửi gắm, “ông Tám Tri làm là tui tin, ủng hộ hết mình, xưa nay vậy chứ không phải mới đây!”.

Trên “công trường” xây dựng cầu chưa bao giờ tắt đi tiếng cười vui phấn khởi
Chúng tôi có dịp ghé thăm chú Tám Tri sau lần chú bệnh nặng, vừa điều trị từ TP. Hồ Chí Minh trở về, và công trình xây cầu đầy tâm huyết của chú thì đang sôi nổi… Vừa dưỡng bệnh, chú vẫn tất bật nghe điện thoại, hướng dẫn “từ xa”, dặn dò từ việc nước nôi đến hỏi han, “thằng Tư bữa trợt té nay cái chân đỡ sưng chưa?”, “mấy chú coi ngó hũ gạo nhà ông Ba, để thôi ổng đi làm không công cất cầu mà cạn gạo!”… Trong những cuộc hỏi thăm ấy, có người mở video call để chú ra dấu, dặn dò anh thanh niên câm điếc bẩm sinh, phải nghe lời mấy chú dạy trộn hồ. Bên kia máy có ai đó nói, “mấy nay không có ông, nó khóc đòi phải gọi ông nó mới chịu yên!”. Kết quả ấy, không chỉ được kết tinh từ tinh thần “dân vận khéo”, mà còn được chú Tám Tri hiện thực hoá hết sức tự nhiên, bằng cả tấm lòng và nhiệt huyết!
Mặc dù trong suốt 4 năm liền, 11/11 lần được bầu chọn làm “tổng chỉ huy công trình” xây dựng cầu từ các cuộc họp dân hết sức thẳng thắng và dân chủ. Nhưng với vai trò một người đảng viên, chú đã đưa công trình xây dựng cầu của mình thật sự đến với Nhân dân. Công khai, minh bạch, lắng nghe và tiếp thu ý kiến Nhân dân để đạt được sự đồng thuận cao nhất, làm sao để mỗi cây cầu khi xây dựng nên, không chỉ được đúc kết từ từng viên gạch của dân mà còn là cầu nối đoàn kết của mọi nhà… Người ta thường nói, hành động làm nên nhân cách, và nhân cách một người đảng viên trong sáng, nhiệt tình, hết lòng vì dân ấy đã quy tụ được lòng người, tạo nên sức mạnh của toàn dân, hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, mỗi công trình đều được “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”…
Có lần chú Tám Tri nói vui với chúng tôi rằng, “cây cầu đầu tiên xây xong, tôi công khai tài chính trước Nhân dân, dư ra được 200 triệu. Cái dư ấy thấy vậy mà đã mồi lửa cho những cây cầu khác ra đời”. Ngay khi vừa tổng kết cây cầu thứ nhất xong, Nhân dân trong xã tại tin tưởng, đề cử chú Tám Tri và đội xây cầu của chú tiếp tục nhận vận động và xây dựng những câu cầu tiếp theo. Khi cầu đã có, chú lại canh cánh và bắt tay vào tiếp tục với những đoạn đường đất, để rồi những chiếc cầu nối đôi bờ, nối những đoạn đường không còn sình lầy mỗi mùa mưa đến, để khi bon bon trên đường đến với Nhân dân, chú càng thấy không có gì có thể ngăn bước mình đến với bà con để lắng nghe và thấu hiểu! Vậy là trong gần 4 năm (2017 – 2020), chú Tám đã hoàn thành “vượt chỉ tiêu” lời hứa với Nhân dân, xây dựng 11/10 cây cầu bê tông nông thôn, mà chiếc cầu nào cũng được thẩm định đảm bảo đầy đủ về mặt chất lượng, luôn vượt chỉ tiêu về trọng tải theo yêu cầu về cầu nông thôn, nhưng lại giảm hơn ½ kinh phí xây dựng, không quá 5 tỷ đồng/cầu (so với giá thuê thị trường là 15 tỷ đồng/cầu). Để đến đầu năm 2021, xã Mỹ Hoà Hưng chính thức đạt đủ các tiêu chí (trong đó có tiêu chí 10 cây cầu bê tông luôn canh cánh trong lòng cán bộ chính quyền xã), được công nhận “Xã nông thôn mới nâng cao” và “Xã đạt chuẩn văn hoá nông thôn mới” 5 năm liền (2015 – 2019). Thành quả này, nhờ một phần không nhỏ từ sự thắp lửa của người đảng viên lão thành, nhiệt huyết và uy tín Tám Tri. Chú đã xây nên một khối đại đoàn kết toàn dân, từ những chiếc cầu rất “ý Đảng – lòng dân”, đúng như Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đúc kết: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Bây giờ, khi những chiếc cầu ván tạm bợ đã được thay thế bằng cầu bê tông, chúng tôi vẫn thấy chú Tám Tri lặn lội theo đội từ thiện đi cất nhà, vá đường; đôi khi lại thấy chú lủ khủ thuốc men đến tặng cho các cụ già ở sâu trong ngọn rạch cù lao. Để rồi khi đến cù lao Ông Hổ, hỏi thăm chú Tám Tri, ai nấy cũng sẽ có một câu chuyện kể về người đảng viên này, như kể về người bà con, hàng xóm, hết sức thân quen và kính trọng. Nhìn những nhịp cầu bê tông kiên cố, đưa quê hương Bác Tôn khởi sắc, chúng tôi mường tượng rằng lúc này, những chiếc cầu không chỉ nối liền đôi bờ, mà còn dựng xây nên mối đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân, như cá với nước, mà chú Tám Tri chính là một thợ xây lặng lẽ, tận tâm và cần mẫn…
Năm 2010, khi đã ở tuổi 62, đương nhiệm Trưởng Ban quản lý Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chú Tám Tri nhận quyết định hưu trí sau hơn 32 năm công tác và 31 năm tuổi Đảng. Ngày làm việc cuối cùng trước khi chính thức bước vào tuổi “nghỉ ngơi”, đứng trên mảnh đất cù lao Ông Hổ thân yêu, nhìn dòng sông Hậu hiền hòa đỏ quạch phù sa, chú chiêm nghiệm lại đời mình, với một câu hỏi thường trực sau mỗi lần dậy lên ký ức. Rằng, mình đã làm được những gì cho xứ sở này?

Chú Nguyễn Văn Tri (đeo kính) trong buổi lễ khởi công xây dựng cầu bê tông nông thôn
Bởi, sinh ra và lớn lên, gần trọn đời mình gắn bó với mảnh đất cù lao Ông Hổ. Ngay từ những ngày đầu quê hương hoàn toàn giải phóng, chú đã sớm có mặt trong lực lượng thanh niên, đoàn viên của ấp. Hoạt động năng nổ, nhiệt tình, từ cán bộ thanh niên chú được Nhân dân bầu chọn làm Phó ấp, Trưởng ấp, rồi Phó Chủ tịch và dần dần được đề bạt giữ chức Chủ tịch UBND xã. Đây là khoảng thời gian xã Mỹ Hòa Hưng còn nhiều khó khăn, đò ngăn cách trở, đường xá đa phần là lộ đất với cầu khỉ tạm bợ. Nhìn những em học sinh ở ngọn rạch đi học vất vả, quần áo lấm lem mỗi mùa mưa, chú Tám Tri ý thức rằng phải xây dựng cầu đường khang trang thì mới hy vọng tạo ra sức bật cho xã nhà. Những chiếc cầu sắt đầu tiên được bắt, những đoạn đường nhựa hóa nông thôn từ một phần kinh phí được cấp và vận động xã hội hóa, dần dần ra đời, có một phần công sức và sự quyết tâm xây dựng của chú Tám Tri. Nỗi niềm “cầu đường” vừa mới được đặt những viên gạch đầu tiên thì năm 1987, trong đợt luân chuyển cán bộ, chú Tám Tri nhận quyết định điều động về làm Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động thị xã Long Xuyên. Không lâu sau, do đời sống khó khăn, các con đang tuổi đi học, cha mẹ già yếu, chú Tám Tri đành ngậm ngùi xin nghỉ việc, về đồng Ba Dầu làm ruộng nhưng vẫn giữ khí tiết của người cộng sản. Vẫn sinh hoạt Đảng đều đặn, lại tiếp tục đến với Nhân dân, nói lên tiếng nói của dân, giúp bà con viết từ cái đơn xin chở gạo đến tờ xin xác nhận hộ nghèo…
Ít năm sau, khi đồng chí Ba Danh về làm Bí thư Thị uỷ Long Xuyên, đã cho người đến Ba Dầu tìm gặp chú Tám Tri với lời nhắn rằng, “anh biết em là đứa sống vì dân, xã nhà đang cần người như em, hãy về giúp bà con mình có người chèo lái”. Sự tha thiết ấy không chỉ là lời của một người đứng đầu thị xã, mà còn là lời kêu gọi của Đảng, của Nhân dân. Nhận lời, ít hôm sau, chú Tám dắt díu vợ con trở về cù lao, tiếp tục làm việc tại Uỷ ban nhân dân xã, nơi đã quen dấu chân của chú hồi mấy năm trước, còn đó những ngổn ngang và trăn trở về một miền đất xanh tươi xứng danh quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
Một cuộc trở lại với Nhân dân, từ Chủ tịch Hội Nông dân, Phó Bí thư Đảng uỷ rồi trở lại với trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã (lần thứ 2). Người ta lại thấy chú Tám Tri đạp xe cọc cạch từ Uỷ ban đến phía đất lở đầu cồn hay tuốt trong ngọn dòng kinh nơi loe ngoe mấy căn nhà tạm bợ, có nhóm trẻ chưa thể đến trường. Mấy bận khiêng xe qua cầu khỉ, có khi khó quá phải để xe lại đầu cầu để qua với dân. Người ta kể rằng, “xe ông Tám Tri chưa bao giờ bị trộm, bởi dân xứ này ai cũng quen mặt chiếc xe ấy và ai ai cũng quý thương ông!”
Từ ngôi chợ, đến xóm dân cư bị xua đuổi vì xâm canh… đều được chú Tám đến tận nơi chăm lo và giải quyết cho ổn thỏa. Có người kể rằng, “ổng là đảng viên, cán bộ mà xắn quần lội nước đến hỏi thăm từ hũ gạo đến cuốn vở cho học sinh, không khác gì bà con thân thuộc!”. Có lẽ xuất thân và vươn lên từ nghèo khó, với đức tính gần gũi Nhân dân, gắn bó sâu đậm với quần chúng, lắng nghe, thấu hiểu và nêu cao trách nhiệm của người đảng viên, chú Tám Tri đã trở thành cầu nối thân thuộc giữa Đảng, chính quyền với Nhân dân cù lao Ông Hổ từ suốt mấy mươi năm qua.
Khi xã nhà dần vươn lên, điều kiện đã ổn định cũng là lúc Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng vừa hoàn thành. Lòng thành đối với Bác Tôn, cần phải có một người đứng đầu Ban Quản lý thật sự uy tín, có tâm và am hiểu nhiều về lịch sử, văn hoá. Nhìn quanh, và rồi Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch đã chọn chú Tám Tri. Vui vẻ bàn giao những tâm huyết quê hương của mình lại cho một thế hệ kế thừa đầy tiềm năng và sức sống, chú nhận nhiệm vụ mới, như người đại diện Nhân dân xứ cù lao và Đảng bộ, chính quyền nơi đây “gác đền” trên quê hương Bác Tôn.
Mười hai năm gắn bó với Khu lưu niệm, mãi đến tuổi 62, chú nhận được quyết định hưu trí của mình. Ngày lặng lẽ về nhà, chú mang nỗi niềm suy nghĩ, mình đã làm gì được cho dân cho đất cù lao?
Niềm trăn trở ấy dường như chưa bao giờ nguôi trong lòng người đảng viên từng trải qua ít nhiều những thăng trầm của thời gian và cuộc sống. Về hưu, nhưng được Nhân dân tin tưởng, chú nhận nhiệm vụ Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã. Đây lại là thời gian chú tiếp tục đến với Nhân dân. Người ta lại thấy hình chú Tám Tri lặn lội khắp nẻo cù lao, đến từng nhà dân nghèo, hỏi thăm ân cần. Đến với bà con bằng chút ít quà bánh, sữa, sách vở, thuốc men mà chú vận động được. Và khi về thì túi lòng lại trĩu nặng những trăn trở của xứ cù lao. Cầu hư, đường hư… đã khơi dậy nỗi niềm bao năm trong lòng chú.
Năm 2011, Mỹ Hoà Hưng được công nhận đạt chuẩn “Xã nông thôn mới”, tuy nhiên vẫn còn “nợ” lại đó 10 cây cầu gỗ đang xuống cấp, với lời hứa, phải xây dựng xong trước năm 2020! Với nguồn ngân sách có hạn, để xây dựng 10 cây cầu bê tông trên 8 tấn với giá thị trường trên 10 tỷ đồng/cây, quả là không phải việc dễ dàng! Lúc bấy giờ, chính quyền xã Mỹ Hoà Hưng đã nghĩ ngay đến chú Tám Tri – người “già làng” đầy uy tín và tâm huyết với địa phương.
Được chính quyền và Nhân dân trong xã tin tưởng, chú Tám Tri vui vẻ nhận lời. Nhưng nỗi lo trước mắt, là làm sao để nắm được kiến thức về cầu đường sâu hơn, thì mới có thể “chỉ huy công trình” đảm bảo chất lượng, mà không làm lãng phí niềm tin cũng như tiền của đóng góp của Nhân dân. Ý thức của một người đảng viên, nhớ lời Bác Hồ dạy “tuổi cao chí khí càng cao”, chú quyết tâm “đi học”. Dành ra mấy tháng ròng rã, người ta lại thấy chú Tám Tri lặn lội đi gặp gỡ nhiều chuyên gia, kiến trúc sư, thậm chí cả những người cất cầu nông thôn nổi tiếng trong và ngoài tỉnh để bắt đầu “học hỏi” một cách chi tiết, từ cách đóng cừ, làm dầm, đổ đà, chọn sắt… Trong những lần “đi học” ấy, dù cầu chưa xây dựng nhưng không ít người đã thấy được sự nhiệt huyết, chân thành và cầu thị của người cán bộ về hưu này, họ không ngần ngại đóng góp tiền xây cầu ngay, như góp thêm lửa cho chú Tám nung những viên gạch niềm tin ngày một rắn chắc hơn!
Khi đã có được những kiến thức cần thiết để xây dựng cầu nông thôn, chú đi vận động nhiều nơi, từ sức người đến sức của. Không lâu sau chú có được một nguồn quỹ, và sự đồng lòng giúp đỡ của đông đảo Nhân dân. Với sự giúp sức của chú Ba Khum - người nổi tiếng đi xây cầu nông thôn ở An Giang. Cuối năm 2011, chú Tám Tri đã cùng Nhân dân địa phương tiến hành xây dựng cây cầu nông thôn đầu tiên ở Mỹ Hòa Hưng bằng 100% vốn từ nguồn xã hội hoá. Hầu hết những người tham gia xây dựng cầu đều theo chữ “tính” của chú Tám Tri mà chung tay vào xây dựng. Hơn 100 người tự nguyện đóng góp công sức tham gia xây dựng cầu, với gần 1.000 ngày công trong suốt 2 tháng ròng rã.
Chưa bao giờ trên “công trường” của chú vắng tiếng cười vui lao động, sự thân tình và nhiệt huyết của đông đảo quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”. Và chú Tám Tri - Đảng viên lão thành ấy, dường như cũng hòa lẫn vào với Nhân dân, không câu nệ, lăng xả trộn hồ, đội mưa đổ đà chẳng khác gì một công nhân! Chính bầu không khí đầy nhiệt huyết “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” mà chú Tám Tri thắp lên ấy, đã lan tỏa đến mọi “công nhân trên công trường” tinh thần làm cầu đầy trách nhiệm và nhiệt huyết. Họ chăm chút từ cọng dây buộc khung thép đến cây sắt ruột dầm, để cho cầu được bền lâu, chất lượng nhất có thể; họ tiết kiệm từng xô hồ đến nắm cát, không quản khó nhọc, mặt kệ thời gian quá 5 giờ tan ca hành chính, miễn còn hồ dư là còn đổ, không để thừa ra phí phạm một chút mồ hôi công sức đóng góp nào của bà con! Bởi từ chị bán rau, chú bán vé số đến ông mù hành khất, ngày nào cũng ghé gửi vài chục ngàn để xây cầu, với niềm gửi gắm, “ông Tám Tri làm là tui tin, ủng hộ hết mình, xưa nay vậy chứ không phải mới đây!”.

Trên “công trường” xây dựng cầu chưa bao giờ tắt đi tiếng cười vui phấn khởi
Mặc dù trong suốt 4 năm liền, 11/11 lần được bầu chọn làm “tổng chỉ huy công trình” xây dựng cầu từ các cuộc họp dân hết sức thẳng thắng và dân chủ. Nhưng với vai trò một người đảng viên, chú đã đưa công trình xây dựng cầu của mình thật sự đến với Nhân dân. Công khai, minh bạch, lắng nghe và tiếp thu ý kiến Nhân dân để đạt được sự đồng thuận cao nhất, làm sao để mỗi cây cầu khi xây dựng nên, không chỉ được đúc kết từ từng viên gạch của dân mà còn là cầu nối đoàn kết của mọi nhà… Người ta thường nói, hành động làm nên nhân cách, và nhân cách một người đảng viên trong sáng, nhiệt tình, hết lòng vì dân ấy đã quy tụ được lòng người, tạo nên sức mạnh của toàn dân, hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, mỗi công trình đều được “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”…
Có lần chú Tám Tri nói vui với chúng tôi rằng, “cây cầu đầu tiên xây xong, tôi công khai tài chính trước Nhân dân, dư ra được 200 triệu. Cái dư ấy thấy vậy mà đã mồi lửa cho những cây cầu khác ra đời”. Ngay khi vừa tổng kết cây cầu thứ nhất xong, Nhân dân trong xã tại tin tưởng, đề cử chú Tám Tri và đội xây cầu của chú tiếp tục nhận vận động và xây dựng những câu cầu tiếp theo. Khi cầu đã có, chú lại canh cánh và bắt tay vào tiếp tục với những đoạn đường đất, để rồi những chiếc cầu nối đôi bờ, nối những đoạn đường không còn sình lầy mỗi mùa mưa đến, để khi bon bon trên đường đến với Nhân dân, chú càng thấy không có gì có thể ngăn bước mình đến với bà con để lắng nghe và thấu hiểu! Vậy là trong gần 4 năm (2017 – 2020), chú Tám đã hoàn thành “vượt chỉ tiêu” lời hứa với Nhân dân, xây dựng 11/10 cây cầu bê tông nông thôn, mà chiếc cầu nào cũng được thẩm định đảm bảo đầy đủ về mặt chất lượng, luôn vượt chỉ tiêu về trọng tải theo yêu cầu về cầu nông thôn, nhưng lại giảm hơn ½ kinh phí xây dựng, không quá 5 tỷ đồng/cầu (so với giá thuê thị trường là 15 tỷ đồng/cầu). Để đến đầu năm 2021, xã Mỹ Hoà Hưng chính thức đạt đủ các tiêu chí (trong đó có tiêu chí 10 cây cầu bê tông luôn canh cánh trong lòng cán bộ chính quyền xã), được công nhận “Xã nông thôn mới nâng cao” và “Xã đạt chuẩn văn hoá nông thôn mới” 5 năm liền (2015 – 2019). Thành quả này, nhờ một phần không nhỏ từ sự thắp lửa của người đảng viên lão thành, nhiệt huyết và uy tín Tám Tri. Chú đã xây nên một khối đại đoàn kết toàn dân, từ những chiếc cầu rất “ý Đảng – lòng dân”, đúng như Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đúc kết: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Bây giờ, khi những chiếc cầu ván tạm bợ đã được thay thế bằng cầu bê tông, chúng tôi vẫn thấy chú Tám Tri lặn lội theo đội từ thiện đi cất nhà, vá đường; đôi khi lại thấy chú lủ khủ thuốc men đến tặng cho các cụ già ở sâu trong ngọn rạch cù lao. Để rồi khi đến cù lao Ông Hổ, hỏi thăm chú Tám Tri, ai nấy cũng sẽ có một câu chuyện kể về người đảng viên này, như kể về người bà con, hàng xóm, hết sức thân quen và kính trọng. Nhìn những nhịp cầu bê tông kiên cố, đưa quê hương Bác Tôn khởi sắc, chúng tôi mường tượng rằng lúc này, những chiếc cầu không chỉ nối liền đôi bờ, mà còn dựng xây nên mối đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân, như cá với nước, mà chú Tám Tri chính là một thợ xây lặng lẽ, tận tâm và cần mẫn…
Phương Anh