Các Mác - nhà phát kiến vĩ đại của nhân loại
- Được đăng: Thứ tư, 04 Tháng 5 2022 15:28
- Lượt xem: 3394
(TUAG)- Ngày 05/5/2022, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới kỷ niệm 204 năm ngày sinh C.Mác (Karl Marx) (05/5/1818 - 05/5/2022) - nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Người đã có những phát kiến vĩ đại cống hiến cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng loài người khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội tiến bộ, tự do và hạnh phúc.

Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh của C.Mác (5/5/1818 - 5/5/2022)
Trên cơ sở tổng kết lịch sử thế giới và thực tiễn phong trào công nhân quốc tế, đồng thời kế thừa những giá trị tinh hoa của nhân loại, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen (Friedrich Engels) đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác - học thuyết khoa học và cách mạng về sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng toàn nhân loại. Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành ngọn cờ lý luận soi đường dẫn lối cho phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các đảng cộng sản trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, ông đã để lại cho nhân loại một di sản tư tưởng đồ sộ, có giá trị khoa học, cách mạng, có sức sống trường tồn đến muôn đời sau, cụ thể là: C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới - sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản - quy luật giá trị thặng dư; tìm ra học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Thứ nhất, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới - sáng lập ra “chủ nghĩa duy vật lịch sử”
Trên cơ sở phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc; đồng thời kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, C.Mác đã xây dựng nên một triết học mới - triết học duy vật biện chứng, là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, triết học duy vật biện chứng lấy sinh khí của mình từ thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
Dựa trên quan điểm đó, khi nghiên cứu lịch sử xã hội, C.Mác xuất phát từ con người hiện thực, xã hội hiện thực, xã hội muốn tồn tại, con người muốn sống, muốn tồn tại cần phải được đảm bảo về cái ăn, cái mặc, cái ở. Những thứ đó giới tự nhiên không ban được cho con người mà con người phải lao động sản xuất để tạo ra nó. Chính vì thế, C.Mác đã nghiên cứu lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người, của xã hội; là hành vi lịch sử đầu tiên, là điều kiện cơ bản của mọi lịch sử. Lịch sử vận động một cách có quy luật, nó không phải là thần bí, nó dựa trên những tiền đề hiện thực, đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bằng cách đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng triệt để trong triết học, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người.
Với việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội đã được C.Mác tìm ra, đó là: quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội như là một quá trình lịch sử - tự nhiên… Sau này, khi nghiên cứu về tư tưởng của Mác, V.I.Lênin đánh giá: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn”[6, tr.53].
Thứ hai, tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản - “quy luật giá trị thặng dư”
Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học. Ông không chỉ phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản; chỉ rõ những mâu thuẫn không thể giải quyết được của xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa tính xã hội ngày càng phát triển của lực lượng sản xuất với tính tư nhân trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giữa giai cấp công nhân với những nhà tư bản, giữa những nhà tư bản với nhau trong quá trình cạnh tranh để đạt giá trị thặng dư tối đa...
Ngày nay, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những hình thức biểu hiện mới khác với hồi cuối thế kỷ XIX, song quy luật giá trị thặng dư do C.Mác tìm ra vẫn là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nhận thức sâu sắc, toàn diện về những phương thức mà các nhà tư bản đã và đang sử dụng để bóc lột công nhân trong nền kinh tế tri thức với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, Mác đã tìm ra được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trước C.Mác, nhiều nhà tư tưởng cũng đã đề cập đến giai cấp vô sản, song, do hạn chế điều kiện về lịch sử họ không tìm thấy được vai trò sứ mệnh lịch sử lớn lao của giai cấp vô sản trong việc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội văn minh. Trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã tạo nên các quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản, C.Mác đã làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; có đủ năng lực, phẩm chất, điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của mình. Khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu và hình thành luận thuyết của C.Mác, nó phản ánh một cách đầy đủ nhất nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mà ông phát hiện ra.
V.I.Lênin cho rằng điểm cốt yếu của học thuyết Mác là “nó đã soi sáng vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản”. Trải qua thử thách của thời gian và kiểm nghiệm của thực tiễn, cho đến nay, phát minh vĩ đại của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản gắn liền với vai trò của đảng cộng sản còn nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng với chủ nghĩa tư bản.
Thời gian càng lùi xa, nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của C.Mác chúng ta càng thấy rõ, ông không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, đã giải đáp được các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên, mà còn là vị lãnh tụ thiên tài, một người bạn, một người đồng chí chân thành, chung thủy, một mẫu mực về đạo đức cách mạng hết sức cao đẹp, luôn lấy đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân loại làm lẽ sống, lý tưởng và sứ mệnh của cả cuộc đời. Đúng như Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: “Tên tuổi Người, sự nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!”[2].
Thứ tư, chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Tư tưởng của C.Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung là mặt trời chói lọi, soi sáng con đường đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, công ơn của C.Mác cao như núi, sâu như biển. Có chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân và Nhân dân Việt Nam mới tìm được con đường đi tới độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cách đây 111 năm, chứng kiến đất nước bị thực dân Pháp cai trị, Nhân dân rơi vào cảnh cùng khổ, lầm than. Với khát vọng cháy bỏng, ý chí và nghị lực phi thường. Chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Sau hơn 10 năm bôn ba khắp các Châu lục trên thế giới, Người đã nhìn thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin mở ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam qua Sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của lãnh tụ V.I.Lênin - người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen. Người đã đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[5, tr.30]; “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[4, tr.128].
Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1930, tạo ra một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đảng đề ra trong 92 năm qua chính là sản phẩm của sự vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; dẫn đến thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi vẻ vang của Nhân dân ta, đồng thời cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam. Từ đó chủ nghĩa Mác-Lênin luôn là ngọn đuốc dẫn đường cách mạng Việt Nam đi đến mọi thắng lợi.
Trải qua 35 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù đất nước còn không ít những khó khăn nhất định, song, với đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp, chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn, đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” [3, tr.25].
Những thành tựu đó minh chứng cho con đường mà Đảng, Nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam - đó là con đường đi theo ánh sáng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đổi mới không phải là xa rời, mà là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Chính vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng… Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[3, tr.33].
Kỷ niệm 204 năm ngày sinh Các Mác (05/5/1818 - 05/5/2022) diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, đại dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức đan xen. Tuy nhiên, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ðảng ta vẫn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Để bài tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với C.Mác, chúng ta - thế hệ tiếp nối sự nghiệp cách mạng của Đảng hãy giữ vững lòng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với Đảng, với Nhân dân. Cùng nhau quyết tâm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu hết mình, vượt qua mọi khó khăn, thách thức trước mắt, giữ vững lập trường chính trị, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng của C.Mác nói riêng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, xây dựng nước Việt Nam phát triển, phồn vinh và hạnh phúc./.
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 190 năm ngày sinh Các Mác (05/5/1818 - 05/5/2008).
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1995, t.19, tr.502.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tập 10.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tập 12.
6. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, tập 23.
7. Những cống hiến của nhà tư tưởng vĩ đại C.Mác, Cổng thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ An Giang, đăng ngày 05/05/2021.

Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh của C.Mác (5/5/1818 - 5/5/2022)
Trên cơ sở tổng kết lịch sử thế giới và thực tiễn phong trào công nhân quốc tế, đồng thời kế thừa những giá trị tinh hoa của nhân loại, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen (Friedrich Engels) đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác - học thuyết khoa học và cách mạng về sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng toàn nhân loại. Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành ngọn cờ lý luận soi đường dẫn lối cho phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các đảng cộng sản trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, ông đã để lại cho nhân loại một di sản tư tưởng đồ sộ, có giá trị khoa học, cách mạng, có sức sống trường tồn đến muôn đời sau, cụ thể là: C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới - sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản - quy luật giá trị thặng dư; tìm ra học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Thứ nhất, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới - sáng lập ra “chủ nghĩa duy vật lịch sử”
Trên cơ sở phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc; đồng thời kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, C.Mác đã xây dựng nên một triết học mới - triết học duy vật biện chứng, là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, triết học duy vật biện chứng lấy sinh khí của mình từ thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
Dựa trên quan điểm đó, khi nghiên cứu lịch sử xã hội, C.Mác xuất phát từ con người hiện thực, xã hội hiện thực, xã hội muốn tồn tại, con người muốn sống, muốn tồn tại cần phải được đảm bảo về cái ăn, cái mặc, cái ở. Những thứ đó giới tự nhiên không ban được cho con người mà con người phải lao động sản xuất để tạo ra nó. Chính vì thế, C.Mác đã nghiên cứu lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự sinh tồn và phát triển của con người, của xã hội; là hành vi lịch sử đầu tiên, là điều kiện cơ bản của mọi lịch sử. Lịch sử vận động một cách có quy luật, nó không phải là thần bí, nó dựa trên những tiền đề hiện thực, đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bằng cách đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng triệt để trong triết học, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người.
Với việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội đã được C.Mác tìm ra, đó là: quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội như là một quá trình lịch sử - tự nhiên… Sau này, khi nghiên cứu về tư tưởng của Mác, V.I.Lênin đánh giá: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn”[6, tr.53].
Thứ hai, tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản - “quy luật giá trị thặng dư”
Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học. Ông không chỉ phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản; chỉ rõ những mâu thuẫn không thể giải quyết được của xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa tính xã hội ngày càng phát triển của lực lượng sản xuất với tính tư nhân trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giữa giai cấp công nhân với những nhà tư bản, giữa những nhà tư bản với nhau trong quá trình cạnh tranh để đạt giá trị thặng dư tối đa...
Ngày nay, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những hình thức biểu hiện mới khác với hồi cuối thế kỷ XIX, song quy luật giá trị thặng dư do C.Mác tìm ra vẫn là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nhận thức sâu sắc, toàn diện về những phương thức mà các nhà tư bản đã và đang sử dụng để bóc lột công nhân trong nền kinh tế tri thức với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, Mác đã tìm ra được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trước C.Mác, nhiều nhà tư tưởng cũng đã đề cập đến giai cấp vô sản, song, do hạn chế điều kiện về lịch sử họ không tìm thấy được vai trò sứ mệnh lịch sử lớn lao của giai cấp vô sản trong việc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội văn minh. Trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã tạo nên các quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản, C.Mác đã làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; có đủ năng lực, phẩm chất, điều kiện khách quan quy định sứ mệnh của mình. Khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu và hình thành luận thuyết của C.Mác, nó phản ánh một cách đầy đủ nhất nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mà ông phát hiện ra.
V.I.Lênin cho rằng điểm cốt yếu của học thuyết Mác là “nó đã soi sáng vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản”. Trải qua thử thách của thời gian và kiểm nghiệm của thực tiễn, cho đến nay, phát minh vĩ đại của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản gắn liền với vai trò của đảng cộng sản còn nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng với chủ nghĩa tư bản.
Thời gian càng lùi xa, nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của C.Mác chúng ta càng thấy rõ, ông không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, đã giải đáp được các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên, mà còn là vị lãnh tụ thiên tài, một người bạn, một người đồng chí chân thành, chung thủy, một mẫu mực về đạo đức cách mạng hết sức cao đẹp, luôn lấy đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân loại làm lẽ sống, lý tưởng và sứ mệnh của cả cuộc đời. Đúng như Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: “Tên tuổi Người, sự nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!”[2].
Thứ tư, chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Tư tưởng của C.Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung là mặt trời chói lọi, soi sáng con đường đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, công ơn của C.Mác cao như núi, sâu như biển. Có chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân và Nhân dân Việt Nam mới tìm được con đường đi tới độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cách đây 111 năm, chứng kiến đất nước bị thực dân Pháp cai trị, Nhân dân rơi vào cảnh cùng khổ, lầm than. Với khát vọng cháy bỏng, ý chí và nghị lực phi thường. Chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Sau hơn 10 năm bôn ba khắp các Châu lục trên thế giới, Người đã nhìn thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin mở ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam qua Sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của lãnh tụ V.I.Lênin - người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen. Người đã đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[5, tr.30]; “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[4, tr.128].
Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1930, tạo ra một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đảng đề ra trong 92 năm qua chính là sản phẩm của sự vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; dẫn đến thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi vẻ vang của Nhân dân ta, đồng thời cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam. Từ đó chủ nghĩa Mác-Lênin luôn là ngọn đuốc dẫn đường cách mạng Việt Nam đi đến mọi thắng lợi.
Trải qua 35 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù đất nước còn không ít những khó khăn nhất định, song, với đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp, chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn, đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” [3, tr.25].
Những thành tựu đó minh chứng cho con đường mà Đảng, Nhân dân ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam - đó là con đường đi theo ánh sáng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đổi mới không phải là xa rời, mà là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Chính vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng… Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[3, tr.33].
Kỷ niệm 204 năm ngày sinh Các Mác (05/5/1818 - 05/5/2022) diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, đại dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức đan xen. Tuy nhiên, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ðảng ta vẫn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Để bài tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với C.Mác, chúng ta - thế hệ tiếp nối sự nghiệp cách mạng của Đảng hãy giữ vững lòng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với Đảng, với Nhân dân. Cùng nhau quyết tâm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu hết mình, vượt qua mọi khó khăn, thách thức trước mắt, giữ vững lập trường chính trị, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng của C.Mác nói riêng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, xây dựng nước Việt Nam phát triển, phồn vinh và hạnh phúc./.
Lê Hữu Lợi
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng
Tài liệu tham khảo1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 190 năm ngày sinh Các Mác (05/5/1818 - 05/5/2008).
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1995, t.19, tr.502.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tập 10.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tập 12.
6. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, tập 23.
7. Những cống hiến của nhà tư tưởng vĩ đại C.Mác, Cổng thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ An Giang, đăng ngày 05/05/2021.