Kiên định với hệ tư tưởng đã chọn
- Được đăng: Thứ ba, 12 Tháng 5 2015 09:36
- Lượt xem: 3286
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 vừa qua, Trung ương đã quyết nghị phương hướng nhân sự của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; xác định một trong những tiêu chuẩn quan trọng của Ủy viên Trung ương là phải “có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của dân tộc”. Đây là sự kế thừa những kinh nghiệm thành công trong công tác xây dựng Đảng mấy chục năm qua; đồng thời, tiếp tục khẳng định sự kiên định của Đảng vào nền tảng tư tưởng đã chọn.
Sự kiên định của Đảng ta đối với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận và thực tiễn khách quan. Trước hết, về phương diện lý luận, đó là sự phụ thuộc về bản chất chính trị của một đảng vào tính chất và nội dung hệ tư tưởng, lý luận mà đảng đó lựa chọn làm kim chỉ nam cho hành động. Trong thực tiễn, bất cứ đảng chính trị nào cũng đều lựa chọn một hệ tư tưởng nhất định làm cơ sở tập hợp lực lượng, thống nhất hành động. Nếu không có hệ tư tưởng, lý luận dẫn đường, đảng chính trị chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Ngay từ năm 1927, quá trình vận động thành lập Đảng, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(1). Các chính đảng theo khuynh hướng tư sản bao giờ cũng chọn hệ tư tưởng tư sản, còn các chính đảng mác-xít thì lấy Chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng của mình.
Thứ hai, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô và Đông Âu không đồng nghĩa với sự sụp đổ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bởi nó không có nguyên nhân từ bản thân học thuyết này. Đây là điều mà nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô thời kỳ đó thừa nhận qua hồi ký và phát biểu của họ. Theo đó, nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của sự sụp đổ bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Do vậy, đây là sự sụp đổ của một mô hình CNXH cụ thể, không đồng nghĩa với “sự cáo chung học thuyết Mác - Lê-nin”. Sự sụp đổ đó chứng tỏ: Đảng nào xa rời những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, thì đảng đó không còn là đảng mác-xít lê-nin-nít chân chính, công cuộc xây dựng CNXH ở đó nhất định thất bại. Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, chúng ta có thể nhận rõ hơn những khuyết tật của mô hình CNXH “xô-viết” và nhiều bài học quan trọng về đấu tranh để giữ vững chính quyền cách mạng, nhất là về sự kiên định với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thứ ba, những thay đổi của thế giới ngày nay vẫn chưa vượt khỏi những quy luật mà Chủ nghĩa Mác đã khái quát, nên Chủ nghĩa Mác vẫn là lý luận khoa học, cách mạng, giá trị nhất trong việc giải thích và cải tạo thế giới. Mặc dù không phải là người mác-xít, Terry Eagleton, giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Lancaste (Anh), tác giả cuốn sách Tại sao Mác đúng? được Trường Đại học Tổng hợp Yale, một trường danh tiếng của Mỹ lựa chọn xuất bản đầu năm 2011, đã không chấp nhận định kiến cho rằng “Chủ nghĩa Mác đã chết và không cần phải nhắc đến nữa”. Phản bác lại luận điểm phủ nhận những giá trị tư tưởng của Mác, Terry Eagleton chỉ ra rằng: “Bản thân Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống mà ông phản bác” và rằng: “Chính những cái tưởng như giúp đả phá Chủ nghĩa Mác lại cũng làm tăng thêm niềm tin vào những khẳng định của Chủ nghĩa Mác. Nó được đẩy đến cực điểm bởi vì trật tự xã hội mà Chủ nghĩa Mác đương đầu, thay vì trở nên nhân từ và ôn hòa hơn, thì lại trở thành tàn nhẫn và cực đoan hơn bao giờ hết. Và chính điều này làm cho sự phê phán của Mác đối với toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa thành đúng đắn hơn”(2).
Đúng là chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển; bộ mặt đã bớt “xấu xí” hơn do có những điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất, nhưng bản chất bóc lột thì vẫn không hề thay đổi. Những mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao độ với cái vỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chật hẹp vẫn còn nguyên đó. Ai cũng dễ nhận thấy điều này khi chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ cuối năm 2007 xuất phát từ nước Mỹ, mà đến nay, một số nước tư bản vẫn chưa thể thoát ra, như Hy Lạp là một thí dụ. Đứng trước sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản, nhiều người tìm đọc di sản của C.Mác. Bản thân G.Xô rốt, nhà tài phiệt và nhà chính trị Mỹ-người luôn tôn thờ chủ thuyết kinh tế thị trường tự do, cũng thừa nhận “Tôi đang đọc Mác. Có nhiều điều thú vị trong những gì ông đã nói”. Còn lãnh đạo các nước phương Tây, những người luôn khước từ sự can thiệp của nhà nước vào khu vực tài chính, cũng tham khảo di sản của C.Mác và hành động ngược lại những gì họ tôn thờ, khi tung ra những gói tài chính khổng lồ để cứu hệ thống tài chính tư bản sắp sụp đổ. Giải thích cho hiện tượng đó, nhà sử học người Anh Ê-rích Hô-xbon đã nói rằng: “Chính là những người tư bản, chứ không phải ai khác, đã tái phát hiện Mác” và “Việc quay trở lại đọc Mác có nghĩa là thế giới cần phải nghiên cứu học thuyết của ông về chủ nghĩa tư bản và về vị trí của học thuyết đó trong sự phát triển của xã hội loài người”. Bình luận cuốn sách Tại sao Mác đúng?, tờ Financial Times ra ngày 27-5-2011 cho rằng: “cách tiếp cận của Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản” (3).
Thực tế nói trên củng cố thêm những tiên đoán của một số học giả tư sản về thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của Chủ nghĩa Mác. Giắc-cơ Đê-ri-đa, triết gia hiện đại có uy tín ở Mỹ và Pháp, đã kêu gọi nhân loại “Trở về với Mác”, rằng nhân loại “không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của Mác”(4). Ngay Brê-din-xki, tác giả cuốn sách Thất bại lớn-sự hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX, mặc dù rất thù ghét chủ nghĩa Mác, cũng phải thừa nhận chủ nghĩa Mác vẫn là một vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới, khi viết rằng: “Khái niệm về phép biện chứng lịch sử xem chừng là phương pháp giá trị nhất để xử lý các mâu thuẫn hiện thực ”(5). Còn Đi-đi-ê Ê-ri-bông, nhà chính luận Pháp vẫn khẳng định: Sức sống mãnh liệt của học thuyết Mác là bất diệt và vai trò dẫn đường thời đại mới vẫn chính là Chủ nghĩa Mác(6). Chẳng thế mà năm 1999, Đại học Cambridge (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ, kết quả là C.Mác đứng đầu. Tháng 7-2005, với câu hỏi tương tự trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình "In Our Time" trên kênh Radio 4 của BBC, C.Mác lại đứng đầu trong danh sách các nhà tư tưởng mà thính giả ưa thích. Thực tế đó đã khẳng định Chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới đương đại.
Thứ tư, thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rõ: Đây là ngọn đèn soi sáng con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Điểm lại lịch sử cách mạng nước ta từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy rất rõ điều này. Chỉ đến khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh tiếp cận được Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền bá tư tưởng đó vào Việt Nam, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, thì bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước của dân tộc ta mới được xác lập; đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(7). Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nhân dân ta đã giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; thống nhất non sông và ngày nay cả nước đang trên con đường xây dựng CNXH.
Cũng cần khách quan chỉ ra rằng, trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Đảng ta cũng có lúc phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm đã được Đảng ta chỉ rõ. Do vậy, không thể vin vào những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng thời gian qua để bác bỏ vai trò của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam.
Nhận thức đúng nguyên nhân của những sai lầm, khuyết điểm, tại Đại hội VI, Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, đề ra đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, được thế giới ghi nhận, đánh giá cao. Những thành tựu to lớn đó có một nguyên nhân cơ bản là Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới trên cơ sở kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống ngày nay.
Nhận thức đúng bản chất vấn đề, tăng cường lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, là điều kiện, cơ sở quan trọng để mỗi cấp, mỗi ngành, địa phương làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ công chức, viên chức thật sự là “công bộc” của dân; hết sức coi trọng tính chất “an dân” khi ban hành và thực thi các chính sách trong phát triển kinh tế, quản lý xã hội... Đó là những việc làm vừa cơ bản, vừa cấp bách để không ngừng củng cố và nâng cao lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự kiên định của Đảng với hệ tư tưởng đã chọn.
-----------------------
(1) - Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 268
(2) - Terry Eagleton - Tại sao Mác đúng?, Chương 1: Chủ nghĩa Mác đã lỗi thời?, http://triethoc.edu.vn
(3) - Terry Eagleton - Tại sao Mác đúng?, Lời giới thiệu, http://triethoc.edu.vn
(4) - Giắc-cơ Đê-ri-đa - Những bóng ma của Mác, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 16
(5)- Lưu Đình Á - Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh thế giới không có khói súng. Nxb CTQG, H. 1994, tr. 129.
(6) - Báo Người quan sát, ngày 17-10-1993.
(7) - Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 268
Thứ hai, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô và Đông Âu không đồng nghĩa với sự sụp đổ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bởi nó không có nguyên nhân từ bản thân học thuyết này. Đây là điều mà nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô thời kỳ đó thừa nhận qua hồi ký và phát biểu của họ. Theo đó, nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của sự sụp đổ bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Do vậy, đây là sự sụp đổ của một mô hình CNXH cụ thể, không đồng nghĩa với “sự cáo chung học thuyết Mác - Lê-nin”. Sự sụp đổ đó chứng tỏ: Đảng nào xa rời những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, thì đảng đó không còn là đảng mác-xít lê-nin-nít chân chính, công cuộc xây dựng CNXH ở đó nhất định thất bại. Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, chúng ta có thể nhận rõ hơn những khuyết tật của mô hình CNXH “xô-viết” và nhiều bài học quan trọng về đấu tranh để giữ vững chính quyền cách mạng, nhất là về sự kiên định với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thứ ba, những thay đổi của thế giới ngày nay vẫn chưa vượt khỏi những quy luật mà Chủ nghĩa Mác đã khái quát, nên Chủ nghĩa Mác vẫn là lý luận khoa học, cách mạng, giá trị nhất trong việc giải thích và cải tạo thế giới. Mặc dù không phải là người mác-xít, Terry Eagleton, giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Lancaste (Anh), tác giả cuốn sách Tại sao Mác đúng? được Trường Đại học Tổng hợp Yale, một trường danh tiếng của Mỹ lựa chọn xuất bản đầu năm 2011, đã không chấp nhận định kiến cho rằng “Chủ nghĩa Mác đã chết và không cần phải nhắc đến nữa”. Phản bác lại luận điểm phủ nhận những giá trị tư tưởng của Mác, Terry Eagleton chỉ ra rằng: “Bản thân Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống mà ông phản bác” và rằng: “Chính những cái tưởng như giúp đả phá Chủ nghĩa Mác lại cũng làm tăng thêm niềm tin vào những khẳng định của Chủ nghĩa Mác. Nó được đẩy đến cực điểm bởi vì trật tự xã hội mà Chủ nghĩa Mác đương đầu, thay vì trở nên nhân từ và ôn hòa hơn, thì lại trở thành tàn nhẫn và cực đoan hơn bao giờ hết. Và chính điều này làm cho sự phê phán của Mác đối với toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa thành đúng đắn hơn”(2).
Đúng là chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển; bộ mặt đã bớt “xấu xí” hơn do có những điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất, nhưng bản chất bóc lột thì vẫn không hề thay đổi. Những mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao độ với cái vỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chật hẹp vẫn còn nguyên đó. Ai cũng dễ nhận thấy điều này khi chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ cuối năm 2007 xuất phát từ nước Mỹ, mà đến nay, một số nước tư bản vẫn chưa thể thoát ra, như Hy Lạp là một thí dụ. Đứng trước sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản, nhiều người tìm đọc di sản của C.Mác. Bản thân G.Xô rốt, nhà tài phiệt và nhà chính trị Mỹ-người luôn tôn thờ chủ thuyết kinh tế thị trường tự do, cũng thừa nhận “Tôi đang đọc Mác. Có nhiều điều thú vị trong những gì ông đã nói”. Còn lãnh đạo các nước phương Tây, những người luôn khước từ sự can thiệp của nhà nước vào khu vực tài chính, cũng tham khảo di sản của C.Mác và hành động ngược lại những gì họ tôn thờ, khi tung ra những gói tài chính khổng lồ để cứu hệ thống tài chính tư bản sắp sụp đổ. Giải thích cho hiện tượng đó, nhà sử học người Anh Ê-rích Hô-xbon đã nói rằng: “Chính là những người tư bản, chứ không phải ai khác, đã tái phát hiện Mác” và “Việc quay trở lại đọc Mác có nghĩa là thế giới cần phải nghiên cứu học thuyết của ông về chủ nghĩa tư bản và về vị trí của học thuyết đó trong sự phát triển của xã hội loài người”. Bình luận cuốn sách Tại sao Mác đúng?, tờ Financial Times ra ngày 27-5-2011 cho rằng: “cách tiếp cận của Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản” (3).
Thực tế nói trên củng cố thêm những tiên đoán của một số học giả tư sản về thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của Chủ nghĩa Mác. Giắc-cơ Đê-ri-đa, triết gia hiện đại có uy tín ở Mỹ và Pháp, đã kêu gọi nhân loại “Trở về với Mác”, rằng nhân loại “không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của Mác”(4). Ngay Brê-din-xki, tác giả cuốn sách Thất bại lớn-sự hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX, mặc dù rất thù ghét chủ nghĩa Mác, cũng phải thừa nhận chủ nghĩa Mác vẫn là một vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới, khi viết rằng: “Khái niệm về phép biện chứng lịch sử xem chừng là phương pháp giá trị nhất để xử lý các mâu thuẫn hiện thực ”(5). Còn Đi-đi-ê Ê-ri-bông, nhà chính luận Pháp vẫn khẳng định: Sức sống mãnh liệt của học thuyết Mác là bất diệt và vai trò dẫn đường thời đại mới vẫn chính là Chủ nghĩa Mác(6). Chẳng thế mà năm 1999, Đại học Cambridge (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ, kết quả là C.Mác đứng đầu. Tháng 7-2005, với câu hỏi tương tự trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình "In Our Time" trên kênh Radio 4 của BBC, C.Mác lại đứng đầu trong danh sách các nhà tư tưởng mà thính giả ưa thích. Thực tế đó đã khẳng định Chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới đương đại.
Thứ tư, thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rõ: Đây là ngọn đèn soi sáng con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Điểm lại lịch sử cách mạng nước ta từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có thể thấy rất rõ điều này. Chỉ đến khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh tiếp cận được Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền bá tư tưởng đó vào Việt Nam, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, thì bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước của dân tộc ta mới được xác lập; đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(7). Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, nhân dân ta đã giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; thống nhất non sông và ngày nay cả nước đang trên con đường xây dựng CNXH.
Cũng cần khách quan chỉ ra rằng, trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Đảng ta cũng có lúc phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm đã được Đảng ta chỉ rõ. Do vậy, không thể vin vào những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng thời gian qua để bác bỏ vai trò của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam.
Nhận thức đúng nguyên nhân của những sai lầm, khuyết điểm, tại Đại hội VI, Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, đề ra đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, được thế giới ghi nhận, đánh giá cao. Những thành tựu to lớn đó có một nguyên nhân cơ bản là Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới trên cơ sở kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống ngày nay.
Nhận thức đúng bản chất vấn đề, tăng cường lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, là điều kiện, cơ sở quan trọng để mỗi cấp, mỗi ngành, địa phương làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ công chức, viên chức thật sự là “công bộc” của dân; hết sức coi trọng tính chất “an dân” khi ban hành và thực thi các chính sách trong phát triển kinh tế, quản lý xã hội... Đó là những việc làm vừa cơ bản, vừa cấp bách để không ngừng củng cố và nâng cao lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự kiên định của Đảng với hệ tư tưởng đã chọn.
-----------------------
(1) - Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 268
(2) - Terry Eagleton - Tại sao Mác đúng?, Chương 1: Chủ nghĩa Mác đã lỗi thời?, http://triethoc.edu.vn
(3) - Terry Eagleton - Tại sao Mác đúng?, Lời giới thiệu, http://triethoc.edu.vn
(4) - Giắc-cơ Đê-ri-đa - Những bóng ma của Mác, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 16
(5)- Lưu Đình Á - Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh thế giới không có khói súng. Nxb CTQG, H. 1994, tr. 129.
(6) - Báo Người quan sát, ngày 17-10-1993.
(7) - Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 268
NGUYỄN NGỌC HỒI/QĐND