Những đóng góp căn bản của công tác lý luận góp phần xây dựng và hoàn thiện đường lối chính trị của Đảng 30 năm qua
- Được đăng: Thứ hai, 15 Tháng 6 2015 19:28
- Lượt xem: 2606
Cách đây hai năm, có ý kiến khẳng định rằng: Chúng ta đang khủng hoảng lý luận (!). Sự thật thì, ngược lại. Vì, lịch sử thiếu triết học là lịch sử mù quáng; và, triết học thiếu lịch sử chỉ là triết học trống rỗng; và căn cứ vào thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới, dưới ngọn cờ của Đảng, không thấy cái gọi là “khủng hoảng lý luận”!
Nhìn lại lịch sử hơn 85 năm của Đảng, trong đó có gần 70 năm cầm quyền, đặc biệt gần 30 năm đổi mới, mặc dù còn nhiều mặt chưa ngang tầm hoặc không ít lĩnh vực đang bất cập với tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song rõ ràng có thể khẳng định, với tầm nhìn chiến lược, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ chính đất nước mình, với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” một cách độc lập và sáng tạo, chúng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh và hữu hiệu, hình thành đường lối chính trị chỉ đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nguồn gốc của những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cần khẳng định, dù còn nhiều hạn chế, yếu kém, trong gần 30 năm qua.
Trong thành công đó, công tác lý luận của Đảng đóng góp một phần xứng đáng. Có thể hình dung:
Tiếp tục tìm tòi và phát triển con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1- Khẳng định toàn vẹn, đa diện và sâu sắc sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Trên tầm nhìn toàn cục thế giới, kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào muốn tồn tại, phát triển và nhịp bước cùng thời đại, đều phải có một tư tưởng của mình hoặc phải chọn lấy một tư tưởng thích hợp với mình. Và đồng thời, kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ rõ, sự lựa chọn ấy chỉ được coi là đúng đắn, khi một mặt phải bắt nguồn sâu xa từ thực tế đất nước, từ tính cách của dân tộc, từ ước vọng tha thiết của nhân dân; và mặt khác, phải phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, với xu thế vận động tất yếu của nhân loại tiến bộ.
Nói cách khác, đó là quá trình lựa chọn và định vị chiến lược phát triển đất nước.
Sự lựa chọn mục tiêu phát triển của dân tộc Việt Nam, xét từ mọi góc độ, không nằm ngoài tất yếu ấy. Đây là một tiến trình lựa chọn kép đầy khắc nghiệt của lịch sử: từ những cái đã, đang có và chúng đang vận động trong lòng dân tộc; từ những cái đã, đang có và chúng đang vận động trong đời sống nhân loại tiến bộ.
Một vết nhơ lịch sử mà bất cứ ai đều biết, vào giữa thế kỷ XIX, tức năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta. Trước hành động xâm lược của kẻ thù, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn thối nát đã hèn nhát đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam trước đó mấy thế kỷ từng là đại biểu cho dân tộc, đến lúc này bộc lộ rõ sự mục ruỗng, bất lực và phản động. Mặc dù vậy, các phong trào yêu nước với gần một trăm cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp của nhân dân ta liên tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam, nhưng đều bị thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn dập tắt trong máu lửa. Năm 1885, phong trào Cần Vương, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển rầm rộ. Tuy các sĩ phu giàu lòng yêu nước, nhưng không có khả năng tìm được phương hướng mới cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đều bị thất bại. Điều chỉ rõ rằng: Độc lập dân tộc không còn gắn với chế độ phong kiến tay sai và bán nước nữa.
Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác, bóc lột thuộc địa Việt Nam, làm cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai cấp cũ, kéo theo sự thay đổi về ý thức và đời sống xã hội. Cũng vào thời điểm này, các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản dồn dập dội vào nước ta: nước Nhật duy tân, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tư tưởng Đại cách mạng Pháp,... Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng đó, phong trào yêu nước Việt Nam chuyển sang khuynh hướng mới là cuộc vận động dân tộc, dân chủ tư sản, tiêu biểu là các phong trào Đông du, Đông kinh nghĩa thục, cải cách dân chủ,... Sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp man rợ của thực dân Pháp. Nổi bật và tập trung nhất là sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (năm 1930) đã đóng “chiếc đinh cuối cùng lên cỗ quan tài” cáo chung cho tư tưởng tư sản và sự nỗ lực của nó trước vận mệnh dân tộc. Điều đó càng chứng tỏ sự thất bại của ý thức hệ tư sản ở Việt Nam, ngay từ khi nó xuất hiện. Rõ ràng, độc lập dân tộc cũng không thể gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa, khi nền độc lập dân tộc bị gông xiềng trong vòng nô lệ thực dân, khi nhân dân Việt Nam mang thân phận vong quốc nô.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó?
Đối với nước ta, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, không có sự lựa chọn nào không bắt nguồn từ thực tế sâu xa của đất nước, từ bản chất và tính cách của dân tộc, từ ước nguyện tha thiết của nhân dân. Đó là điều kiện hết sức cơ bản. Nhưng nếu chỉ nói như vậy là không đủ, thậm chí là một sai lầm, xét về phương pháp luận và cả về lịch sử. Nói như V. I. Lê-nin: Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết hơn của nước này hay nước nọ. Đó là biện chứng phát triển của lịch sử từng dân tộc, của toàn thế giới. Và như bất cứ ai đều thấy, giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời. Nó đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi “màn sương mù lịch sử”. Chủ nghĩa cộng sản nhất định thay thế chủ nghĩa tư bản. Đó là một “tiếng sét” trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển trở thành cái gọi là “trung tâm vũ trụ”, chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống phát triển, cho tới năm 1917 - trước lúc Đại chiến thứ nhất kết thúc.
Nhưng cũng vào chính những “đêm trước” năm 1917 ấy, lịch sử thế giới dưới sự thống trị và nhào nặn của chủ nghĩa tư bản cũng đang âm ỷ và hàm chứa những tiền đề, những dữ kiện báo hiệu một thế giới đang rạn vỡ, cấp bách đòi hỏi cần phải đổi mới cơ cấu, chất lượng, hình thức phát triển và phải được sắp xếp lại. Chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc đã cố sức làm nhưng không thể cứu vãn được, tự nó bộc lộ ra rõ nhất những mắt xích, những khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chính nó. Sự rạn vỡ của thế giới, sự phát triển không đồng đều của hệ thống tư bản chủ nghĩa với những mâu thuẫn cố hữu, phức tạp mà chính nó không đủ sức giải quyết... đã làm đảo lộn tư duy, chỉnh đốn lại lực lượng cách mạng thế giới, làm xuất hiện những tình thế cách mạng mới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa hiện thực phát triển đến mức người ta rêu rao tưởng như một “định mệnh”, như một “trật tự vĩnh hằng”, thì sau Tháng Mười - 1917, không ai không thấy, sự nô dịch của chủ nghĩa tư bản áp đặt và khống chế thế giới ấy đã bị chọc thủng, điều định mệnh mà chủ nghĩa tư bản rêu rao là “trật tự vĩnh hằng” ấy thành ảo tưởng, bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, trên khắp hành tinh. Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX, với những biến động “long trời lở đất”, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga “rung chuyển thế giới”, đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi, vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trên mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã “gặp” chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam và là một tất yếu, ngày 3-2-1930, lịch sử Việt Nam đã sản sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng những gì mà dân tộc ta đang gánh chịu, đó là chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản - tất cả đang vận động trong lòng chính dân tộc chúng ta; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, thì chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, trước hết là cao trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh hào hùng và đẫm máu, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, hôm nay và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Bởi, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”; “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam (chưa đầy 22 vạn người), và nhân dân ta (chưa đầy 20 triệu đồng bào) đã lựa chọn con đường tất yếu ấy. Nói cách khác, giai cấp công nhân Việt Nam là đại biểu được lịch sử trao cho sứ mệnh lãnh đạo dân tộc mà đứng đầu là Đảng của nó - Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Sở dĩ vậy, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một... cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(1), “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”(2). Và, sự thật Đảng Cộng sản Việt Nam là người gánh vác trọng trách lịch sử đó.
2- Định vị chiến lược phát triển đất nước - biện chứng phát triển con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lô-gíc, là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; và xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân lao động Việt Nam.
Giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến hay tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế nhất định. Đó là những mâu thuẫn và hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp không tránh khỏi, không phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Đó là văn hóa của sự phát triển bền vững của dân tộc ta trong thời đại ngày nay.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng khả năng và những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho dân tộc ta thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới ngày nay và ngày càng đạt tới những đỉnh cao của sự thịnh vượng, văn minh, hiện đại, công bằng, dân chủ và bình đẳng trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác, giữa nước ta với các nước trên toàn thế giới... mà chỉ có thể tìm thấy ở chủ nghĩa xã hội.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa rút ngắn một cách biện chứng và phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta, trong bối cảnh thời đại ngày nay.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển bất biến của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lô-gíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, giá trị Việt Nam và vị thế Việt Nam, trong thế giới hiện đại.
Nhận thức và hành động theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một điển hình trong các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.
Qua gần 30 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Không vì sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa mà lung lạc quyết tâm, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên toàn thế giới. Nói khái quát, đó là bản lĩnh kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mặt trận đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc; là quyết tâm: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, “dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” những ngày giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954); là chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” trong cuộc kháng chiến thắng lợi chống đế quốc Mỹ (1954 -1975); là quan điểm: “Chỉ có đi theo chủ nghĩa xã hội thì dân tộc mới thực sự được giải phóng” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là luận điểm: Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, kiên quyết lãnh đạo toàn dân đấu tranh xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới, “không gây thù oán với một ai” - dù Hồ Chí Minh viết cách đây gần 50 năm, nhưng vẫn hoàn toàn cập nhật, đúng đắn cả về đối nội và đối ngoại hiện nay. Trong ánh sáng tư tưởng của Người, Đảng ta khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(3).
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu mà còn là cương lĩnh hành động và bản lĩnh sống của dân tộc Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, phù hợp với con đường phát triển tất yếu của thời đại.
Hơn 85 năm qua, nhất là qua gần 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, những kiến giải và ứng xử của dân tộc theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã chứng minh một cách xác đáng sự đúng đắn của con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta lựa chọn và cho chúng ta nhiều bài học cách mạng lớn. Bài học bao trùm cho mọi quyết sách trong thời đại mới là phải tiếp tục tìm hiểu hệ giá trị đó để giữ vững bản lĩnh Việt Nam; dưới ánh sáng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm ra những kiến giải và ứng xử tối ưu trong mọi tình huống và bước ngoặt chiến lược của cách mạng trong thời kỳ mới, trước tình thế hiện nay, để tiếp tục kiến giải một cách khoa học và phù hợp con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản sắc Việt Nam.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ III sau Công nguyên của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Trong nước, các thế lực chống đối cùng các nguy cơ khác vẫn ngáng trở bước tiến của toàn dân, toàn Đảng, trong khi trên thế giới, các thế lực đế quốc vẫn hòng tiếp tục khoác cái “luật rừng” “mạnh được yếu thua” lên đời sống loài người. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù đối mặt với xu thế toàn cầu hóa phức tạp thế nào, dù giải quyết các nguy cơ sâu rộng bao nhiêu chăng nữa... thì như một hằng số hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những kiến giải và hành xử của dân tộc trên con đường xã hội chủ nghĩa, vẫn nguyên vẹn là Con đường phát triển Việt Nam hoàn toàn phù hợp xu thế thời đại, ứng biến với mọi đổi thay của thế giới ngày nay để dân tộc ta tiếp tục làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vững bước tiến vào thế kỷ XXI, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Công tác lý luận dưới mọi chiều cạnh và mức độ khác nhau đã nỗ lực lý giải vấn đề căn bản và cốt tử đó một cách khoa học và phù hợp, để dân tộc chúng ta, dưới ngọn cờ của Đảng, kiên định và vững tâm trên con đường xã hội chủ nghĩa tất yếu và phù hợp dân tộc.
Nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn căn bản, góp phần hoạch định những quyết sách chính trị của Đảng
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc 30 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tuy chưa nhanh như chúng ta mọng đợi. Nguyên nhân căn bản của những thành quả đó thuộc về những quyết sách chính trị của Đảng, mà công tác lý luận góp phần quan trọng. Trong rất nhiều vấn đề lý luận chính trị, có thể khái lược trên 8 vấn đề chính yếu nhất:
1- Phát triển nền tảng tư tưởng chính trị của công cuộc đổi mới
Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Càng đẩy tới công cuộc đổi mới, thực tiễn càng đòi hỏi sự phát triển không ngừng của lý luận, nhất là phương lược xử lý trước những vấn đề mới mẻ và chưa chín muồi. Năm 1991, Đảng ta chỉ rõ: “những gì mà nhận thức chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và tư duy lý luận”(4). Điều đó hoàn toàn đúng với sự đòi hỏi của V.I. Lê-nin, ngay từ năm 1917: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý”(5). Và, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1924, Người cũng viết về điều mệnh hệ đó: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” nên cần “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông...”(6).
Theo tư tưởng đó, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới khởi động năm 1986, năm 1991, tại Đại hội VII, Đảng ta quyết định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(7) (tôi nhấn mạnh - N.L). Đây là vấn đề cực kỳ hệ trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn đối với tiến trình đẩy tới công cuộc đổi mới và tiền đồ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đây cũng là điều tự nhiên trên lộ trình phát triển độc lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở những quốc gia dân tộc cụ thể; là chân trời phát triển và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Bởi, nó là sự thể hiện tập trung nhu cầu tất yếu của thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam và bản lĩnh cầm quyền của Đảng ta - “đứa con nòi của giai cấp lao động nước ta”, người lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là một bước tiến lớn, một đóng góp vô giá của công tác lý luận trong việc xây dựng các quan điểm và các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới gần 20 năm sau đó. Đến lượt nó, đây cũng chính là cơ hội, là môi trường, đồng thời là thử thách, là trọng trách vĩ đại đối với công tác lý luận trong việc kiên định, trung thành và độc lập, sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Và, 15 năm sau Đại hội VII của Đảng, tới Đại hội XI, chúng ta không ngừng khám phá và xây dựng một nhận thức toàn vẹn về tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ nội tại và sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình chỉ đạo thắng lợi công cuộc đổi mới. Nói như các chính khách nước ngoài tại Diễn đàn các Đại hội của Đảng: “Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đang trở nên sinh động ở Việt Nam hôm nay”. “Thành tựu của nhân dân Việt Nam có được là do các đồng chí đã nghiêm túc nỗ lực áp dụng học thuyết khoa học mác-xít lê-nin-nít vào điều kiện cụ thể của Việt Nam dưới tên gọi tư tưởng Hồ Chí Minh”. “Điều đó chứng minh tính thời đại, tính tất yếu và sức sống của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay”(8).
2- Xác định định hướng, phát triển định tính xã hội chủ nghĩa và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu vận động của cách mạng Việt Nam. Chúng ta đang ở bước đi ban đầu của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đó, với vô vàn những bước dích dắc, gấp khúc, thậm chí cả giật lùi... nên không thể không có định hướng xã hội chủ nghĩa đối với toàn bộ hành trình con đường cần phải đi. Đây vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là nhu cầu chủ quan trong mỗi bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi, nói như V. I. Lê-nin: Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, “Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(9).
Theo đó, công tác lý luận đã nỗ lực hoạch định về cơ bản về định hướng xã hội chủ nghĩa trên những lĩnh vực chủ yếu của công cuộc đổi mới: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., chỉ rõ những khía cạnh cần đề phòng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh mới của thời đại và đất nước. Luận điểm định hướng có tính chất then chốt là, lý thuyết về sự “phát triển rút ngắn” con đường quá độ “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách biện chứng và thực tế: Từ định hướng, định tính tới định lượng và định kỳ với những nấc thang, nhịp độ, bước đi cụ thể, phù hợp. Qua thực tiễn, có thể hình dung khái quát, định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình xác định những giới hạn, những “độ” tồn tại lịch sử của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng, với những hành trình, bước đi xác định cụ thể và phù hợp... theo những tính quy luật, quy luật và nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những “độ” ấy sẽ chệch hướng hoặc lạc hướng xã hội chủ nghĩa và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, chúng ta hoạch định định hướng xã hội chủ nghĩa, tìm tòi định tính trên từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội đất nước và ngày càng bổ sung thêm những nhận thức mới về vấn đề căn bản này. Từ mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa gồm 6 đặc trưng (năm 1991) tới mô hình 8 đặc trưng, xử lý tám mối quan hệ lớn (năm 2011)...; phát triển rút ngắn và phát triển ngắn hạn... là bước tiến cách mạng và sáng tạo về xử lý cái phổ biến và cái đặc thù về chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.
Đó là bước khởi nguyên, đồng thời cũng là quan điểm chỉ đạo và quán xuyến toàn bộ sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc: Từ định hướng xã hội chủ nghĩa tới định tính chủ nghĩa xã hội và định hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3- Phát kiến và xây dựng về lý luận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Bắt đầu công cuộc đổi mới, năm 1986, Đảng ta xác định: Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Với khâu đột phá là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, với phương pháp, như Ph. Ăng-ghen nói, mỗi loại sự vật có một kiểu phủ định riêng của nó, trên cơ sở sự phát kiến táo bạo, công tác lý luận tập trung mọi cố gắng kiến giải, xác lập và nỗ lực góp phần thực thi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nền kinh tế hoạt động dưới sự chế ngự, dẫn dắt và điều tiết bởi các quy luật, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội vận hành theo quy luật của thị trường nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sự khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là lời tuyên bố đoạn tuyệt nền kinh tế tập trung bao cấp mà chúng ta đã duy trì quá lâu đến mức trở thành một khuyết điểm, thậm chí là sai lầm, như V.I. Lê-nin nói, cho dù đó là một ưu điểm của một thời gian dài trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trước đây. Sự hình thành các quan điểm lý luận chủ yếu một cách “động” và “mở” gắn chặt với trực tiếp chỉ đạo thực tiễn xây dựng, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa và qua tổng kết thực tiễn, Đảng ta lựa chọn khâu đột phá là xây dựng thể chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa, theo đó không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ yếu, nội dung khá toàn diện và các biện pháp khả dụng, hiệu quả trong tổ chức thực tiễn nhằm xác lập một nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ, bền vững và độc lập tự chủ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo đủ tiềm lực chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Chúng ta hướng tới xây dựng một nền kinh tế năng động, phát triển mạnh mẽ, bền vững, với xung lực kinh tế tri thức, thấm đượm văn hóa và nhân văn hay nói cụ thể đó là văn hóa của sự phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bền vững.
Nói khái lược, việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Đảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn đất nước với điểm xuất phát đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội như chúng ta; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập tự chủ về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả. Đó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem nó chỉ là một phương tiện, một công cụ hữu hiệu vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ nhân dân so với các thể chế xã hội khác cùng tiến hành nền kinh tế thị trường.
Đó là một quyết sách đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân trên nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và hợp với xu thế phát triển của thời đại của Đảng ta, một đóng góp to lớn và mới mẻ của công tác lý luận.
4- Kiến tạo lý luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Gần 70 năm cầm quyền, xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi việc xây dựng Nhà nước là một trọng trách có ý nghĩa sống còn. Đặc biệt, bước vào và càng tiến hành mạnh mẽ, sâu sắc công cuộc đổi mới, thực tiễn càng yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh, trong sạch và ngang tầm với đòi hỏi của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là sự phát triển mới về nhận thức chính trị, một mục tiêu quyết định, một nội dung căn bản, một bước tiến lớn về thực tiễn của công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết trên bình diện chính trị của chúng ta.
Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng vẫn mãi giữ bản chất cách mạng, bản chất giai cấp, thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, với phương thức thực thi quản lý bằng pháp quyền, theo pháp luật; nêu cao vị trí, vai trò của pháp chế, yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân trong xã hội đều phải có nghĩa vụ và quyền lợi tôn trọng và tuân thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hóa dân tộc... một cách dân chủ toàn vẹn.
Chúng ta chưa có sự tích luỹ cần thiết về mặt lý luận nhất là chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trên phương diện tổ chức thực tiễn về công việc to lớn, mới mẻ và nan giải này. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực của công tác lý luận rất toàn diện, rất cao, rất thiết thực và rất hiệu quả trong việc xác lập mô hình, nội dung, tổ chức và phương thức hoạt động cũng như kiến tạo những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho Nhà nước ngang tầm phát triển của công cuộc đổi mới không chỉ về quy mô, tốc độ mà cả về chiều sâu và tính chất phức tạp của nó trong bối cảnh biến động khôn lường hiện nay.
Cho đến nay, cố nhiên còn không ít hạn chế, không ít việc cần làm, song đã phác thảo một cách vừa đại lược có tính căn bản sâu sắc vừa cụ thể có tính thực tiễn khả thi cao một hệ thống lý thuyết và nỗ lực tổ chức thực tiễn nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Từ vị trí, vai trò, bản chất, chức năng, nhiệm vụ tới đặc trưng, nội dung, mô hình tổ chức quyền lực, đổi mới thể chế và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và những điều kiện tiên quyết có tính cần và đủ theo hướng căn cơ, hiện đại bảo đảm cho việc thực thi quyền lực của Nhà nước, tất cả nhằm phục vụ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tương thích với điều kiện đất nước và phù hợp với xu thế vận động của thời đại. Điều cần khắc sâu là, chúng ta từng bước xây dựng những tiền đề lý luận và nỗ lực thực tiễn nhằm lường trước, chế ngự và khắc phục những khiếm khuyết, giới hạn, khuyết tật của của nền kinh tế thị trường mà dù muốn hay không sớm muộn chúng nhất định xảy ra và Nhà nước pháp quyền của ta phải gánh vác theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều đó thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và đó cũng chính là hiện thân tư tưởng về xây dựng Nhà nước đổi mới Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả quyền lực nhà nước... đều thuộc về nhân dân”, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Đảng lãnh đạo để Nhân dân là chủ và làm chủ xã hội, bằng và thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với thượng tôn pháp luật là nền tảng xây dựng và quản lý đất nước ta.
5- Nhận diện và phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại, con người Việt Nam thời kỳ mới, góp phần phát triển hệ giá trị Việt Nam
Có thể nói, qua gần 30 năm đổi mới, chúng ta đã xây dựng thành công lý luận một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam mang tầm chiến lược của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước mắt xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trên nền tảng văn hóa truyền thống, kế thừa biện chứng những thành tựu mấy chục năm qua, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, chúng ta đã xây dựng thành công một hệ giá trị mới của nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại. Điều cần khẳng định là, chúng ta đã hoạch định một cách chiến lược sự phát triển của văn hóa theo nghĩa rộng rãi nhất của khái niệm này, với những lĩnh vực then chốt hợp thành chỉnh thể hữu cơ của nền văn hóa mới Việt Nam, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng, vừa là động lực nhằm “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại (10). Đó cũng chính là quỹ đạo vận động tất yếu của văn hóa.
Vấn đề hết sức mới mẻ là, chúng ta đã nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc và hành động một cách kiên quyết, đồng bộ tạo cho được sự phát triển hài hòa, đồng bộ, gắn bó hữu cơ giữa kinh tế với văn hóa đáp ứng nhu cầu phát triển tất yếu của đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với sự tương dung và hiệu quả trên cả ba phương diện: cơ chế vận hành phù hợp, thiết chế không ngừng đổi mới và đội ngũ cán bộ thích ứng. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước(11). Xây dựng nền văn hóa Việt Nam, với chủ thể là con người, là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng, từng bước bổ sung và hoàn thiện hệ giá trị Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, là vấn đề nổi bật trong 30 năm qua...
Có thể nói, sự đột phá ấy trên phương diện này là mới mẻ và phù hợp, là bộ phận quan trọng có tính tiền đề góp phần hợp thành chỉnh thể hệ giá trị Việt Nam trong chiến lược phát triển đất nước một cách căn bản và bền vững trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
6- Xây dựng lý luận chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Thời đại mới, thời cơ, thế và lực mới đã tạo dựng một tư cách mới của đất nước trong các quan hệ đối ngoại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta đã tự tạo thời cơ, thế và lực mới, qua đó tạo ra thực lực mới, vị thế mới và tư cách mới của đất nước một cách chủ động, hiệu quả trong việc xử lý tất cả các mối quan hệ đối ngoại theo truyền thống bang giao dân tộc và thông lệ, luật pháp quốc tế trên tất cả các bình diện của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa... mệnh hệ tới uy tín và sức mạnh của đất nước, mà một trong những trọng trách đầu tiên đó công tác lý luận vinh dự được giao phó. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thực lực như cái chuông, ngoại giao như tiếng chuông; chuông có lớn thì tiếng nó mới vang xa. Nhưng phải khẳng định rằng, bằng sự hoạch định chiến lược, với sự nỗ lực thực tế không mệt mỏi, một chiến lược ngoại giao chủ động, tích cực hội nhập quốc tế từng bước được hình thành và phát triển phù hợp với xu thế của thời đại. Nói cách khác, chúng ta đã chủ động xây dựng một nền lý luận về ngoại giao Việt Nam của thời kỳ đất nước hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Hơn hai mươi năm qua, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, sự vận động và phát triển của luận điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo: Từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(12) (năm 1991) tới “Việt Nam sẵn sàng (nhấn mạnh - N.L) là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lâp và phát triển”(13) (năm 2001), và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” (năm 2011) đã thể hiện một cách hết sức biện chứng và minh triết quan điểm, phương châm, nghệ thuật ngoại giao và khát vọng nâng cao vị thế Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Bao trùm lên hết thảy là quan điểm kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để khẳng định vị trí độc lập, vai trò tích cực và tinh thần chủ động của nước ta trước cộng đồng quốc tế, vì một thế giới hòa bình, phát triển và tiến bộ. Đó chính là hiện thân của truyền thống ngoại giao hòa hiếu, quan điểm ngoại giao tiến bộ, mục tiêu ngoại giao chân chính và phương lược ngoại giao năng động, mềm dẻo và cầu thị của nền ngoại giao chúng ta. Đó chính là quan điểm chỉ đạo “Dĩ bất biến ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh của nền ngoại giao Việt Nam.
7- Phát triển lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Gần 70 năm cầm quyền, trong đó có gần 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã tích lũy được không ít bài học vô giá cả trên hai bình diện thành công và chưa thành công. Thành tựu lý luận nổi bật của gần 30 năm đổi mới là, chúng ta đã từng bước làm rõ toàn diện hơn, sâu sắc hơn và thấu triệt hơn những vấn đề cơ bản về tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong thời đại ngày nay.
Nhìn lại gần 30 năm, tại bốn kỳ Đại hội, Đảng ta hết sức chú trọng tổng kết những vấn đề cơ bản trên các phương diện lãnh đạo của Đảng về chính trị, về tư tưởng và về tổ chức bao trùm toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội đất nước trong công cuộc đổi mới. Đặc biệt, “những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn” và Đại hội IX, XI của Đảng đã rút ra những bài học chủ yếu nhất về công tác xây dựng Đảng. Có thể nói, đó là sự kết tinh tập trung, cụ thể và sinh động về mặt lý luận cầm quyền của Đảng. Bước đầu có thể hình dung khái lược những thành tựu lý luận mới mẻ về vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền được thể hiện một cách tập trung trên 11 bình diện chủ yếu: 1- Quy luật cầm quyền; 2- Quan niệm cầm quyền; 3- Cơ sở cầm quyền; 4- Phương lược cầm quyền; 5- Nội dung cầm quyền; 6- Cơ chế cầm quyền; 7- Phương thức cầm quyền; 8- Trách nhiệm cầm quyền; 9- Nguồn lực cầm quyền; 10- Môi trường cầm quyền; và 11- Nguy cơ đối với sự cầm quyền.
Giải quyết tất cả những vấn đề có tính quy luật đó tạo nên vị trí, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm cầm quyền của Đảng quyết định những thành công của gần 30 năm đổi mới. Qua đó, Đảng đổi mới và xác lập vị thế, vai trò của mình về pháp lý và đạo lý, không ngừng trưởng thành toàn diện, tiếp tục đủ sức gánh vác những trọng trách mới của lịch sử dân tộc giao phó lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XXI.
8- Xác định và phát huy hệ động lực chủ yếu và to lớn của cách mạng Việt Nam
Đại đoàn kết bao hàm đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là truyền thống, là chiến lược của cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, chiến lược đó tiếp tục được nâng cao, phát huy mạnh mẽ hơn lên một quy mô mới, tầm cao mới, chiều sâu mới đáp ứng những thay đổi của thời cuộc, những yêu cầu phát triển mới của đất nước, trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”(14).
Có thể nói, đó là một bước tiến mới, một bổ sung mới trong nhận thức và hành động thực hiện đại đoàn kết toàn dân là một mục tiêu, một nhiệm vụ, một công tác hàng đầu, một đạo lý sống và hành xử Việt Nam. Đó là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tính chân lý trong thời đại ngày nay: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Là then chốt của thành công”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Phương châm thực hiện là đại đoàn kết toàn dân tộc: bao hàm các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, các thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài; đoàn kết trên cơ sở những điểm tương đồng, trên tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai dân tộc Việt Nam; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới ngọn cờ của Đảng. Đây là một sáng tạo lớn, một sự phát triển mới của Đảng trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên phương diện này: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân...; phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ...; phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc...; phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc”, “... phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân”(15), dù ở trong nước hay cư trú và sinh sống, làm việc ở nước ngoài. Tất cả đều là đồng bào Việt Nam. Nói khái quát theo Người: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”(16). Trên thực tiễn, Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội(17).
Nói khái quát, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc phải tạo nên cho kỳ được sự đồng thuận xã hội, mà căn bản và trung tâm là thống nhất lòng dân, đồng thuận xã hội, với mục tiêu chung thống nhất: vì sự phát triển của dân tộc Việt Nam, bằng hệ động lực: lợi ích, dân chủ, văn hóa, yêu nước…trong đó động lực chủ yếu là đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là Quốc bảo dựng nước và giữ nước hiện nay. Đây là một trong những bước tiến dài và rất quan trọng trên con đường thực thi dân chủ ở nước ta.
Vì vậy, khẳng định và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc là “động lực chủ yếu” hợp thành hệ động lực gồm: động lực kinh tế, động lực văn hóa... của sự nghiệp đổi mới là một nỗ lực lớn và mới của công tác lý luận. Và, xét về cấu trúc lý thuyết đổi mới, nó là một trong những vấn đề lý luận căn bản và mới mẻ góp phần làm nên diện mạo và hệ tố chất của con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại.
Trên cơ sở mục tiêu bất biến độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và xu thế vận động của thời đại ngày nay, kiên định và phát triển sáng tạo nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhận diện đầy đủ hơn nội hàm định hướng xã hội chủ nghĩa đến phát triển những tố chất cơ bản về mặt định tính, làm cơ sở cho việc định hình chủ nghĩa xã hội và hoạch định con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo nên chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất và khoa học sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của lịch sử./.
--------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 175
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 467
(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 4
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 111
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t. 34, tr. 152
(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 1, tr. 465
(7) Văn kiện Đại hội VII đã dẫn, tr. 127
(8) Báo Nhân Dân, số ra ngày 2-7-1996, tr. 5
(9) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 34, tr. 152 - 153
(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 89, 88
(12) Văn kiện Đại hội VII đã dẫn, tr. 147
(13) Văn kiện Đại hội IX đã dẫn, tr. 119
(14) Văn kiện Đại hội IX đã dẫn, tr. 123
(15) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 605 - 606
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 49
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 87
TS. Nhị Lê
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Nhìn lại lịch sử hơn 85 năm của Đảng, trong đó có gần 70 năm cầm quyền, đặc biệt gần 30 năm đổi mới, mặc dù còn nhiều mặt chưa ngang tầm hoặc không ít lĩnh vực đang bất cập với tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song rõ ràng có thể khẳng định, với tầm nhìn chiến lược, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ chính đất nước mình, với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” một cách độc lập và sáng tạo, chúng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh và hữu hiệu, hình thành đường lối chính trị chỉ đạo thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nguồn gốc của những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cần khẳng định, dù còn nhiều hạn chế, yếu kém, trong gần 30 năm qua.
Trong thành công đó, công tác lý luận của Đảng đóng góp một phần xứng đáng. Có thể hình dung:
Tiếp tục tìm tòi và phát triển con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1- Khẳng định toàn vẹn, đa diện và sâu sắc sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Trên tầm nhìn toàn cục thế giới, kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào muốn tồn tại, phát triển và nhịp bước cùng thời đại, đều phải có một tư tưởng của mình hoặc phải chọn lấy một tư tưởng thích hợp với mình. Và đồng thời, kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ rõ, sự lựa chọn ấy chỉ được coi là đúng đắn, khi một mặt phải bắt nguồn sâu xa từ thực tế đất nước, từ tính cách của dân tộc, từ ước vọng tha thiết của nhân dân; và mặt khác, phải phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, với xu thế vận động tất yếu của nhân loại tiến bộ.
Nói cách khác, đó là quá trình lựa chọn và định vị chiến lược phát triển đất nước.
Sự lựa chọn mục tiêu phát triển của dân tộc Việt Nam, xét từ mọi góc độ, không nằm ngoài tất yếu ấy. Đây là một tiến trình lựa chọn kép đầy khắc nghiệt của lịch sử: từ những cái đã, đang có và chúng đang vận động trong lòng dân tộc; từ những cái đã, đang có và chúng đang vận động trong đời sống nhân loại tiến bộ.
Một vết nhơ lịch sử mà bất cứ ai đều biết, vào giữa thế kỷ XIX, tức năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta. Trước hành động xâm lược của kẻ thù, chế độ phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn thối nát đã hèn nhát đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam trước đó mấy thế kỷ từng là đại biểu cho dân tộc, đến lúc này bộc lộ rõ sự mục ruỗng, bất lực và phản động. Mặc dù vậy, các phong trào yêu nước với gần một trăm cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp của nhân dân ta liên tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam, nhưng đều bị thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn dập tắt trong máu lửa. Năm 1885, phong trào Cần Vương, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển rầm rộ. Tuy các sĩ phu giàu lòng yêu nước, nhưng không có khả năng tìm được phương hướng mới cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đều bị thất bại. Điều chỉ rõ rằng: Độc lập dân tộc không còn gắn với chế độ phong kiến tay sai và bán nước nữa.
Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác, bóc lột thuộc địa Việt Nam, làm cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai cấp cũ, kéo theo sự thay đổi về ý thức và đời sống xã hội. Cũng vào thời điểm này, các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản dồn dập dội vào nước ta: nước Nhật duy tân, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tư tưởng Đại cách mạng Pháp,... Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng đó, phong trào yêu nước Việt Nam chuyển sang khuynh hướng mới là cuộc vận động dân tộc, dân chủ tư sản, tiêu biểu là các phong trào Đông du, Đông kinh nghĩa thục, cải cách dân chủ,... Sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp man rợ của thực dân Pháp. Nổi bật và tập trung nhất là sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (năm 1930) đã đóng “chiếc đinh cuối cùng lên cỗ quan tài” cáo chung cho tư tưởng tư sản và sự nỗ lực của nó trước vận mệnh dân tộc. Điều đó càng chứng tỏ sự thất bại của ý thức hệ tư sản ở Việt Nam, ngay từ khi nó xuất hiện. Rõ ràng, độc lập dân tộc cũng không thể gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa, khi nền độc lập dân tộc bị gông xiềng trong vòng nô lệ thực dân, khi nhân dân Việt Nam mang thân phận vong quốc nô.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó?
Đối với nước ta, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, không có sự lựa chọn nào không bắt nguồn từ thực tế sâu xa của đất nước, từ bản chất và tính cách của dân tộc, từ ước nguyện tha thiết của nhân dân. Đó là điều kiện hết sức cơ bản. Nhưng nếu chỉ nói như vậy là không đủ, thậm chí là một sai lầm, xét về phương pháp luận và cả về lịch sử. Nói như V. I. Lê-nin: Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết hơn của nước này hay nước nọ. Đó là biện chứng phát triển của lịch sử từng dân tộc, của toàn thế giới. Và như bất cứ ai đều thấy, giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời. Nó đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi “màn sương mù lịch sử”. Chủ nghĩa cộng sản nhất định thay thế chủ nghĩa tư bản. Đó là một “tiếng sét” trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển trở thành cái gọi là “trung tâm vũ trụ”, chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống phát triển, cho tới năm 1917 - trước lúc Đại chiến thứ nhất kết thúc.
Nhưng cũng vào chính những “đêm trước” năm 1917 ấy, lịch sử thế giới dưới sự thống trị và nhào nặn của chủ nghĩa tư bản cũng đang âm ỷ và hàm chứa những tiền đề, những dữ kiện báo hiệu một thế giới đang rạn vỡ, cấp bách đòi hỏi cần phải đổi mới cơ cấu, chất lượng, hình thức phát triển và phải được sắp xếp lại. Chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc đã cố sức làm nhưng không thể cứu vãn được, tự nó bộc lộ ra rõ nhất những mắt xích, những khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chính nó. Sự rạn vỡ của thế giới, sự phát triển không đồng đều của hệ thống tư bản chủ nghĩa với những mâu thuẫn cố hữu, phức tạp mà chính nó không đủ sức giải quyết... đã làm đảo lộn tư duy, chỉnh đốn lại lực lượng cách mạng thế giới, làm xuất hiện những tình thế cách mạng mới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa hiện thực phát triển đến mức người ta rêu rao tưởng như một “định mệnh”, như một “trật tự vĩnh hằng”, thì sau Tháng Mười - 1917, không ai không thấy, sự nô dịch của chủ nghĩa tư bản áp đặt và khống chế thế giới ấy đã bị chọc thủng, điều định mệnh mà chủ nghĩa tư bản rêu rao là “trật tự vĩnh hằng” ấy thành ảo tưởng, bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, trên khắp hành tinh. Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX, với những biến động “long trời lở đất”, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga “rung chuyển thế giới”, đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi, vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trên mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã “gặp” chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam và là một tất yếu, ngày 3-2-1930, lịch sử Việt Nam đã sản sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng những gì mà dân tộc ta đang gánh chịu, đó là chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản - tất cả đang vận động trong lòng chính dân tộc chúng ta; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, thì chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, trước hết là cao trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh hào hùng và đẫm máu, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, hôm nay và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Bởi, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”; “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam (chưa đầy 22 vạn người), và nhân dân ta (chưa đầy 20 triệu đồng bào) đã lựa chọn con đường tất yếu ấy. Nói cách khác, giai cấp công nhân Việt Nam là đại biểu được lịch sử trao cho sứ mệnh lãnh đạo dân tộc mà đứng đầu là Đảng của nó - Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Sở dĩ vậy, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một... cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(1), “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”(2). Và, sự thật Đảng Cộng sản Việt Nam là người gánh vác trọng trách lịch sử đó.
2- Định vị chiến lược phát triển đất nước - biện chứng phát triển con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lô-gíc, là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; và xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân lao động Việt Nam.
Giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến hay tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế nhất định. Đó là những mâu thuẫn và hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp không tránh khỏi, không phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Đó là văn hóa của sự phát triển bền vững của dân tộc ta trong thời đại ngày nay.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng khả năng và những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho dân tộc ta thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới ngày nay và ngày càng đạt tới những đỉnh cao của sự thịnh vượng, văn minh, hiện đại, công bằng, dân chủ và bình đẳng trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác, giữa nước ta với các nước trên toàn thế giới... mà chỉ có thể tìm thấy ở chủ nghĩa xã hội.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa rút ngắn một cách biện chứng và phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta, trong bối cảnh thời đại ngày nay.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển bất biến của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lô-gíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, giá trị Việt Nam và vị thế Việt Nam, trong thế giới hiện đại.
Nhận thức và hành động theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một điển hình trong các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.
Qua gần 30 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Không vì sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa mà lung lạc quyết tâm, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên toàn thế giới. Nói khái quát, đó là bản lĩnh kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mặt trận đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc; là quyết tâm: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, “dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” những ngày giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954); là chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” trong cuộc kháng chiến thắng lợi chống đế quốc Mỹ (1954 -1975); là quan điểm: “Chỉ có đi theo chủ nghĩa xã hội thì dân tộc mới thực sự được giải phóng” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là luận điểm: Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, kiên quyết lãnh đạo toàn dân đấu tranh xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới, “không gây thù oán với một ai” - dù Hồ Chí Minh viết cách đây gần 50 năm, nhưng vẫn hoàn toàn cập nhật, đúng đắn cả về đối nội và đối ngoại hiện nay. Trong ánh sáng tư tưởng của Người, Đảng ta khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”(3).
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu mà còn là cương lĩnh hành động và bản lĩnh sống của dân tộc Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, phù hợp với con đường phát triển tất yếu của thời đại.
Hơn 85 năm qua, nhất là qua gần 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, những kiến giải và ứng xử của dân tộc theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã chứng minh một cách xác đáng sự đúng đắn của con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta lựa chọn và cho chúng ta nhiều bài học cách mạng lớn. Bài học bao trùm cho mọi quyết sách trong thời đại mới là phải tiếp tục tìm hiểu hệ giá trị đó để giữ vững bản lĩnh Việt Nam; dưới ánh sáng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm ra những kiến giải và ứng xử tối ưu trong mọi tình huống và bước ngoặt chiến lược của cách mạng trong thời kỳ mới, trước tình thế hiện nay, để tiếp tục kiến giải một cách khoa học và phù hợp con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản sắc Việt Nam.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ III sau Công nguyên của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Trong nước, các thế lực chống đối cùng các nguy cơ khác vẫn ngáng trở bước tiến của toàn dân, toàn Đảng, trong khi trên thế giới, các thế lực đế quốc vẫn hòng tiếp tục khoác cái “luật rừng” “mạnh được yếu thua” lên đời sống loài người. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù đối mặt với xu thế toàn cầu hóa phức tạp thế nào, dù giải quyết các nguy cơ sâu rộng bao nhiêu chăng nữa... thì như một hằng số hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những kiến giải và hành xử của dân tộc trên con đường xã hội chủ nghĩa, vẫn nguyên vẹn là Con đường phát triển Việt Nam hoàn toàn phù hợp xu thế thời đại, ứng biến với mọi đổi thay của thế giới ngày nay để dân tộc ta tiếp tục làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vững bước tiến vào thế kỷ XXI, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Công tác lý luận dưới mọi chiều cạnh và mức độ khác nhau đã nỗ lực lý giải vấn đề căn bản và cốt tử đó một cách khoa học và phù hợp, để dân tộc chúng ta, dưới ngọn cờ của Đảng, kiên định và vững tâm trên con đường xã hội chủ nghĩa tất yếu và phù hợp dân tộc.
Nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn căn bản, góp phần hoạch định những quyết sách chính trị của Đảng
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc 30 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tuy chưa nhanh như chúng ta mọng đợi. Nguyên nhân căn bản của những thành quả đó thuộc về những quyết sách chính trị của Đảng, mà công tác lý luận góp phần quan trọng. Trong rất nhiều vấn đề lý luận chính trị, có thể khái lược trên 8 vấn đề chính yếu nhất:
1- Phát triển nền tảng tư tưởng chính trị của công cuộc đổi mới
Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Càng đẩy tới công cuộc đổi mới, thực tiễn càng đòi hỏi sự phát triển không ngừng của lý luận, nhất là phương lược xử lý trước những vấn đề mới mẻ và chưa chín muồi. Năm 1991, Đảng ta chỉ rõ: “những gì mà nhận thức chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và tư duy lý luận”(4). Điều đó hoàn toàn đúng với sự đòi hỏi của V.I. Lê-nin, ngay từ năm 1917: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý”(5). Và, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1924, Người cũng viết về điều mệnh hệ đó: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” nên cần “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông...”(6).
Theo tư tưởng đó, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới khởi động năm 1986, năm 1991, tại Đại hội VII, Đảng ta quyết định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(7) (tôi nhấn mạnh - N.L). Đây là vấn đề cực kỳ hệ trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn đối với tiến trình đẩy tới công cuộc đổi mới và tiền đồ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đây cũng là điều tự nhiên trên lộ trình phát triển độc lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở những quốc gia dân tộc cụ thể; là chân trời phát triển và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Bởi, nó là sự thể hiện tập trung nhu cầu tất yếu của thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam và bản lĩnh cầm quyền của Đảng ta - “đứa con nòi của giai cấp lao động nước ta”, người lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là một bước tiến lớn, một đóng góp vô giá của công tác lý luận trong việc xây dựng các quan điểm và các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới gần 20 năm sau đó. Đến lượt nó, đây cũng chính là cơ hội, là môi trường, đồng thời là thử thách, là trọng trách vĩ đại đối với công tác lý luận trong việc kiên định, trung thành và độc lập, sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Và, 15 năm sau Đại hội VII của Đảng, tới Đại hội XI, chúng ta không ngừng khám phá và xây dựng một nhận thức toàn vẹn về tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ nội tại và sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình chỉ đạo thắng lợi công cuộc đổi mới. Nói như các chính khách nước ngoài tại Diễn đàn các Đại hội của Đảng: “Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đang trở nên sinh động ở Việt Nam hôm nay”. “Thành tựu của nhân dân Việt Nam có được là do các đồng chí đã nghiêm túc nỗ lực áp dụng học thuyết khoa học mác-xít lê-nin-nít vào điều kiện cụ thể của Việt Nam dưới tên gọi tư tưởng Hồ Chí Minh”. “Điều đó chứng minh tính thời đại, tính tất yếu và sức sống của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay”(8).
2- Xác định định hướng, phát triển định tính xã hội chủ nghĩa và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu vận động của cách mạng Việt Nam. Chúng ta đang ở bước đi ban đầu của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đó, với vô vàn những bước dích dắc, gấp khúc, thậm chí cả giật lùi... nên không thể không có định hướng xã hội chủ nghĩa đối với toàn bộ hành trình con đường cần phải đi. Đây vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là nhu cầu chủ quan trong mỗi bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi, nói như V. I. Lê-nin: Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, “Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”(9).
Theo đó, công tác lý luận đã nỗ lực hoạch định về cơ bản về định hướng xã hội chủ nghĩa trên những lĩnh vực chủ yếu của công cuộc đổi mới: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., chỉ rõ những khía cạnh cần đề phòng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh mới của thời đại và đất nước. Luận điểm định hướng có tính chất then chốt là, lý thuyết về sự “phát triển rút ngắn” con đường quá độ “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách biện chứng và thực tế: Từ định hướng, định tính tới định lượng và định kỳ với những nấc thang, nhịp độ, bước đi cụ thể, phù hợp. Qua thực tiễn, có thể hình dung khái quát, định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình xác định những giới hạn, những “độ” tồn tại lịch sử của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng, với những hành trình, bước đi xác định cụ thể và phù hợp... theo những tính quy luật, quy luật và nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những “độ” ấy sẽ chệch hướng hoặc lạc hướng xã hội chủ nghĩa và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, chúng ta hoạch định định hướng xã hội chủ nghĩa, tìm tòi định tính trên từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội đất nước và ngày càng bổ sung thêm những nhận thức mới về vấn đề căn bản này. Từ mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa gồm 6 đặc trưng (năm 1991) tới mô hình 8 đặc trưng, xử lý tám mối quan hệ lớn (năm 2011)...; phát triển rút ngắn và phát triển ngắn hạn... là bước tiến cách mạng và sáng tạo về xử lý cái phổ biến và cái đặc thù về chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.
Đó là bước khởi nguyên, đồng thời cũng là quan điểm chỉ đạo và quán xuyến toàn bộ sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc: Từ định hướng xã hội chủ nghĩa tới định tính chủ nghĩa xã hội và định hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3- Phát kiến và xây dựng về lý luận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Bắt đầu công cuộc đổi mới, năm 1986, Đảng ta xác định: Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Với khâu đột phá là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, với phương pháp, như Ph. Ăng-ghen nói, mỗi loại sự vật có một kiểu phủ định riêng của nó, trên cơ sở sự phát kiến táo bạo, công tác lý luận tập trung mọi cố gắng kiến giải, xác lập và nỗ lực góp phần thực thi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nền kinh tế hoạt động dưới sự chế ngự, dẫn dắt và điều tiết bởi các quy luật, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội vận hành theo quy luật của thị trường nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sự khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là lời tuyên bố đoạn tuyệt nền kinh tế tập trung bao cấp mà chúng ta đã duy trì quá lâu đến mức trở thành một khuyết điểm, thậm chí là sai lầm, như V.I. Lê-nin nói, cho dù đó là một ưu điểm của một thời gian dài trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trước đây. Sự hình thành các quan điểm lý luận chủ yếu một cách “động” và “mở” gắn chặt với trực tiếp chỉ đạo thực tiễn xây dựng, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa và qua tổng kết thực tiễn, Đảng ta lựa chọn khâu đột phá là xây dựng thể chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa, theo đó không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ yếu, nội dung khá toàn diện và các biện pháp khả dụng, hiệu quả trong tổ chức thực tiễn nhằm xác lập một nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ, bền vững và độc lập tự chủ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo đủ tiềm lực chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Chúng ta hướng tới xây dựng một nền kinh tế năng động, phát triển mạnh mẽ, bền vững, với xung lực kinh tế tri thức, thấm đượm văn hóa và nhân văn hay nói cụ thể đó là văn hóa của sự phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bền vững.
Nói khái lược, việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Đảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn đất nước với điểm xuất phát đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội như chúng ta; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập tự chủ về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả. Đó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem nó chỉ là một phương tiện, một công cụ hữu hiệu vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ nhân dân so với các thể chế xã hội khác cùng tiến hành nền kinh tế thị trường.
Đó là một quyết sách đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân trên nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và hợp với xu thế phát triển của thời đại của Đảng ta, một đóng góp to lớn và mới mẻ của công tác lý luận.
4- Kiến tạo lý luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Gần 70 năm cầm quyền, xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi việc xây dựng Nhà nước là một trọng trách có ý nghĩa sống còn. Đặc biệt, bước vào và càng tiến hành mạnh mẽ, sâu sắc công cuộc đổi mới, thực tiễn càng yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh, trong sạch và ngang tầm với đòi hỏi của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là sự phát triển mới về nhận thức chính trị, một mục tiêu quyết định, một nội dung căn bản, một bước tiến lớn về thực tiễn của công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết trên bình diện chính trị của chúng ta.
Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng vẫn mãi giữ bản chất cách mạng, bản chất giai cấp, thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, với phương thức thực thi quản lý bằng pháp quyền, theo pháp luật; nêu cao vị trí, vai trò của pháp chế, yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân trong xã hội đều phải có nghĩa vụ và quyền lợi tôn trọng và tuân thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hóa dân tộc... một cách dân chủ toàn vẹn.
Chúng ta chưa có sự tích luỹ cần thiết về mặt lý luận nhất là chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trên phương diện tổ chức thực tiễn về công việc to lớn, mới mẻ và nan giải này. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực của công tác lý luận rất toàn diện, rất cao, rất thiết thực và rất hiệu quả trong việc xác lập mô hình, nội dung, tổ chức và phương thức hoạt động cũng như kiến tạo những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho Nhà nước ngang tầm phát triển của công cuộc đổi mới không chỉ về quy mô, tốc độ mà cả về chiều sâu và tính chất phức tạp của nó trong bối cảnh biến động khôn lường hiện nay.
Cho đến nay, cố nhiên còn không ít hạn chế, không ít việc cần làm, song đã phác thảo một cách vừa đại lược có tính căn bản sâu sắc vừa cụ thể có tính thực tiễn khả thi cao một hệ thống lý thuyết và nỗ lực tổ chức thực tiễn nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Từ vị trí, vai trò, bản chất, chức năng, nhiệm vụ tới đặc trưng, nội dung, mô hình tổ chức quyền lực, đổi mới thể chế và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và những điều kiện tiên quyết có tính cần và đủ theo hướng căn cơ, hiện đại bảo đảm cho việc thực thi quyền lực của Nhà nước, tất cả nhằm phục vụ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tương thích với điều kiện đất nước và phù hợp với xu thế vận động của thời đại. Điều cần khắc sâu là, chúng ta từng bước xây dựng những tiền đề lý luận và nỗ lực thực tiễn nhằm lường trước, chế ngự và khắc phục những khiếm khuyết, giới hạn, khuyết tật của của nền kinh tế thị trường mà dù muốn hay không sớm muộn chúng nhất định xảy ra và Nhà nước pháp quyền của ta phải gánh vác theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều đó thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và đó cũng chính là hiện thân tư tưởng về xây dựng Nhà nước đổi mới Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả quyền lực nhà nước... đều thuộc về nhân dân”, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Đảng lãnh đạo để Nhân dân là chủ và làm chủ xã hội, bằng và thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với thượng tôn pháp luật là nền tảng xây dựng và quản lý đất nước ta.
5- Nhận diện và phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại, con người Việt Nam thời kỳ mới, góp phần phát triển hệ giá trị Việt Nam
Có thể nói, qua gần 30 năm đổi mới, chúng ta đã xây dựng thành công lý luận một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam mang tầm chiến lược của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước mắt xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trên nền tảng văn hóa truyền thống, kế thừa biện chứng những thành tựu mấy chục năm qua, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, chúng ta đã xây dựng thành công một hệ giá trị mới của nền văn hóa Việt Nam dân tộc, hiện đại. Điều cần khẳng định là, chúng ta đã hoạch định một cách chiến lược sự phát triển của văn hóa theo nghĩa rộng rãi nhất của khái niệm này, với những lĩnh vực then chốt hợp thành chỉnh thể hữu cơ của nền văn hóa mới Việt Nam, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng, vừa là động lực nhằm “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại (10). Đó cũng chính là quỹ đạo vận động tất yếu của văn hóa.
Vấn đề hết sức mới mẻ là, chúng ta đã nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc và hành động một cách kiên quyết, đồng bộ tạo cho được sự phát triển hài hòa, đồng bộ, gắn bó hữu cơ giữa kinh tế với văn hóa đáp ứng nhu cầu phát triển tất yếu của đất nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với sự tương dung và hiệu quả trên cả ba phương diện: cơ chế vận hành phù hợp, thiết chế không ngừng đổi mới và đội ngũ cán bộ thích ứng. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước(11). Xây dựng nền văn hóa Việt Nam, với chủ thể là con người, là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng, từng bước bổ sung và hoàn thiện hệ giá trị Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, là vấn đề nổi bật trong 30 năm qua...
Có thể nói, sự đột phá ấy trên phương diện này là mới mẻ và phù hợp, là bộ phận quan trọng có tính tiền đề góp phần hợp thành chỉnh thể hệ giá trị Việt Nam trong chiến lược phát triển đất nước một cách căn bản và bền vững trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
6- Xây dựng lý luận chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Thời đại mới, thời cơ, thế và lực mới đã tạo dựng một tư cách mới của đất nước trong các quan hệ đối ngoại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta đã tự tạo thời cơ, thế và lực mới, qua đó tạo ra thực lực mới, vị thế mới và tư cách mới của đất nước một cách chủ động, hiệu quả trong việc xử lý tất cả các mối quan hệ đối ngoại theo truyền thống bang giao dân tộc và thông lệ, luật pháp quốc tế trên tất cả các bình diện của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa... mệnh hệ tới uy tín và sức mạnh của đất nước, mà một trong những trọng trách đầu tiên đó công tác lý luận vinh dự được giao phó. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thực lực như cái chuông, ngoại giao như tiếng chuông; chuông có lớn thì tiếng nó mới vang xa. Nhưng phải khẳng định rằng, bằng sự hoạch định chiến lược, với sự nỗ lực thực tế không mệt mỏi, một chiến lược ngoại giao chủ động, tích cực hội nhập quốc tế từng bước được hình thành và phát triển phù hợp với xu thế của thời đại. Nói cách khác, chúng ta đã chủ động xây dựng một nền lý luận về ngoại giao Việt Nam của thời kỳ đất nước hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Hơn hai mươi năm qua, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, sự vận động và phát triển của luận điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo: Từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(12) (năm 1991) tới “Việt Nam sẵn sàng (nhấn mạnh - N.L) là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lâp và phát triển”(13) (năm 2001), và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” (năm 2011) đã thể hiện một cách hết sức biện chứng và minh triết quan điểm, phương châm, nghệ thuật ngoại giao và khát vọng nâng cao vị thế Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Bao trùm lên hết thảy là quan điểm kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để khẳng định vị trí độc lập, vai trò tích cực và tinh thần chủ động của nước ta trước cộng đồng quốc tế, vì một thế giới hòa bình, phát triển và tiến bộ. Đó chính là hiện thân của truyền thống ngoại giao hòa hiếu, quan điểm ngoại giao tiến bộ, mục tiêu ngoại giao chân chính và phương lược ngoại giao năng động, mềm dẻo và cầu thị của nền ngoại giao chúng ta. Đó chính là quan điểm chỉ đạo “Dĩ bất biến ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh của nền ngoại giao Việt Nam.
7- Phát triển lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Gần 70 năm cầm quyền, trong đó có gần 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã tích lũy được không ít bài học vô giá cả trên hai bình diện thành công và chưa thành công. Thành tựu lý luận nổi bật của gần 30 năm đổi mới là, chúng ta đã từng bước làm rõ toàn diện hơn, sâu sắc hơn và thấu triệt hơn những vấn đề cơ bản về tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong thời đại ngày nay.
Nhìn lại gần 30 năm, tại bốn kỳ Đại hội, Đảng ta hết sức chú trọng tổng kết những vấn đề cơ bản trên các phương diện lãnh đạo của Đảng về chính trị, về tư tưởng và về tổ chức bao trùm toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội đất nước trong công cuộc đổi mới. Đặc biệt, “những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn” và Đại hội IX, XI của Đảng đã rút ra những bài học chủ yếu nhất về công tác xây dựng Đảng. Có thể nói, đó là sự kết tinh tập trung, cụ thể và sinh động về mặt lý luận cầm quyền của Đảng. Bước đầu có thể hình dung khái lược những thành tựu lý luận mới mẻ về vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền được thể hiện một cách tập trung trên 11 bình diện chủ yếu: 1- Quy luật cầm quyền; 2- Quan niệm cầm quyền; 3- Cơ sở cầm quyền; 4- Phương lược cầm quyền; 5- Nội dung cầm quyền; 6- Cơ chế cầm quyền; 7- Phương thức cầm quyền; 8- Trách nhiệm cầm quyền; 9- Nguồn lực cầm quyền; 10- Môi trường cầm quyền; và 11- Nguy cơ đối với sự cầm quyền.
Giải quyết tất cả những vấn đề có tính quy luật đó tạo nên vị trí, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm cầm quyền của Đảng quyết định những thành công của gần 30 năm đổi mới. Qua đó, Đảng đổi mới và xác lập vị thế, vai trò của mình về pháp lý và đạo lý, không ngừng trưởng thành toàn diện, tiếp tục đủ sức gánh vác những trọng trách mới của lịch sử dân tộc giao phó lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XXI.
8- Xác định và phát huy hệ động lực chủ yếu và to lớn của cách mạng Việt Nam
Đại đoàn kết bao hàm đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là truyền thống, là chiến lược của cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, chiến lược đó tiếp tục được nâng cao, phát huy mạnh mẽ hơn lên một quy mô mới, tầm cao mới, chiều sâu mới đáp ứng những thay đổi của thời cuộc, những yêu cầu phát triển mới của đất nước, trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”(14).
Có thể nói, đó là một bước tiến mới, một bổ sung mới trong nhận thức và hành động thực hiện đại đoàn kết toàn dân là một mục tiêu, một nhiệm vụ, một công tác hàng đầu, một đạo lý sống và hành xử Việt Nam. Đó là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tính chân lý trong thời đại ngày nay: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Là then chốt của thành công”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Phương châm thực hiện là đại đoàn kết toàn dân tộc: bao hàm các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, các thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài; đoàn kết trên cơ sở những điểm tương đồng, trên tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai dân tộc Việt Nam; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới ngọn cờ của Đảng. Đây là một sáng tạo lớn, một sự phát triển mới của Đảng trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên phương diện này: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân...; phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ...; phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc...; phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc”, “... phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân”(15), dù ở trong nước hay cư trú và sinh sống, làm việc ở nước ngoài. Tất cả đều là đồng bào Việt Nam. Nói khái quát theo Người: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”(16). Trên thực tiễn, Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội(17).
Nói khái quát, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc phải tạo nên cho kỳ được sự đồng thuận xã hội, mà căn bản và trung tâm là thống nhất lòng dân, đồng thuận xã hội, với mục tiêu chung thống nhất: vì sự phát triển của dân tộc Việt Nam, bằng hệ động lực: lợi ích, dân chủ, văn hóa, yêu nước…trong đó động lực chủ yếu là đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là Quốc bảo dựng nước và giữ nước hiện nay. Đây là một trong những bước tiến dài và rất quan trọng trên con đường thực thi dân chủ ở nước ta.
Vì vậy, khẳng định và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc là “động lực chủ yếu” hợp thành hệ động lực gồm: động lực kinh tế, động lực văn hóa... của sự nghiệp đổi mới là một nỗ lực lớn và mới của công tác lý luận. Và, xét về cấu trúc lý thuyết đổi mới, nó là một trong những vấn đề lý luận căn bản và mới mẻ góp phần làm nên diện mạo và hệ tố chất của con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại.
Trên cơ sở mục tiêu bất biến độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và xu thế vận động của thời đại ngày nay, kiên định và phát triển sáng tạo nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhận diện đầy đủ hơn nội hàm định hướng xã hội chủ nghĩa đến phát triển những tố chất cơ bản về mặt định tính, làm cơ sở cho việc định hình chủ nghĩa xã hội và hoạch định con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo nên chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất và khoa học sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của lịch sử./.
--------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 175
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 467
(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 4
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 111
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t. 34, tr. 152
(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 1, tr. 465
(7) Văn kiện Đại hội VII đã dẫn, tr. 127
(8) Báo Nhân Dân, số ra ngày 2-7-1996, tr. 5
(9) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 34, tr. 152 - 153
(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 89, 88
(12) Văn kiện Đại hội VII đã dẫn, tr. 147
(13) Văn kiện Đại hội IX đã dẫn, tr. 119
(14) Văn kiện Đại hội IX đã dẫn, tr. 123
(15) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 605 - 606
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 49
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 87
TS. Nhị Lê
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản