Xây dựng Đảng
Công tác xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi mới: Nhận thức lý luận và vấn đề thực tiễn.
- Được đăng: Thứ năm, 12 Tháng 3 2015 08:26
- Lượt xem: 6076
Gần ba mươi năm qua Đảng ta luôn vững vàng, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới; xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Gần ba mươi năm ấy, công tác xây dựng Đảng đã có nhiều đổi mới.
Sự phát triển nhận thức lý luận về Đảng và xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi mới
Gần ba mươi năm qua, nhất là 10 năm gần đây, nhận thức về Đảng và công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới.
Một là, nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đến Đại hội X và XI, Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Khẳng định như vậy thể hiện bước tiến về nhận thức lý luận của Đảng ta về bản chất của Đảng.
Hai là, nhận thức đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng khẳng định rõ hơn, đầy đủ hơn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta”(1). Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Trong gần 30 năm qua, đã có bước tiến trong nhận thức về làm rõ những luận điểm nào của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin trước kia đã đúng, bây giờ và về sau vẫn đúng; những luận điểm nào trước kia đúng, nhưng điều kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi, không còn phù hợp, cần phải bổ sung, phát triển hoặc thay đổi; những luận điểm nào ngay khi sinh thời, các ông đã phát hiện thấy không đầy đủ hoặc thừa nhận là sai và đã sửa đổi, nhưng chúng ta không thấy hết; những luận điểm nào của các ông mà chúng ta đã hiểu không đầy đủ, hoặc hiểu sai do nghiên cứu không thấu đáo hoặc hiểu theo cách hiểu không đúng của người khác, đảng khác. Từ đó, Đảng ta đã xác định phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ động nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển, các trào lưu lý luận và các thành tựu khoa học xã hội của thế giới.
Ba là, nhận thức rõ hơn vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Bốn là, nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vị trí công tác xây dựng Đảng.
Qua gần 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, sự nghiệp sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đều khẳng định: Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, bảo đảm cho Đảng ta luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng, xứng đáng là Đảng cầm quyền. Việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải góp phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm cao trí tuệ và phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Năm là, nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung công tác xây dựng Đảng.
Nhận thức đúng trong xây dựng Đảng về chính trị. Trước hết, phải kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Từ đó, nhận thức rõ vai trò của tham mưu, nghiên cứu, tư vấn khoa học và trách nhiệm chính trị của người đứng đầu cấp ủy trong lĩnh vực xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng.
Nhận thức rõ hơn công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Xác định rõ công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp ủy các cấp và đồng chí bí thư cấp ủy, của cả hệ thống chính trị với sự tham gia đóng góp của nhân dân, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận, báo chí của Đảng.
Nhận thức trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ có bước tiến mới. Đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và cán bộ cấp cơ sở được thường xuyên chăm lo xây dựng. Công tác cán bộ được đổi mới gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Nhận thức ngày càng rõ về xây dựng tiềm lực trí tuệ của Đảng; rèn luyện năng lực, tư duy chính trị của cán bộ, đảng viên. Ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta đã đặt vấn đề xây dựng tiềm lực trí tuệ của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Quan điểm xây dựng tiềm lực trí tuệ của Đảng nêu trên đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa hơn tại các Đại hội VIII, IX và X của Đảng. Như vậy, việc xây dựng tiềm lực trí tuệ của Đảng đã luôn được Đảng ta đặt ở vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng.
Cũng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chỉ rõ: đổi mới tư duy chính trị không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã đạt được hay phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phủ nhận đường lối chính trị đúng đắn đã được xác định; trái lại, đó chính là sự bổ sung và phát triển những thành tựu ấy. Với quan điểm này, Đảng đã đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên tinh thần dân chủ, cởi mở, tranh luận thẳng thắn, tự phê bình và phê bình để tìm ra cái mới đúng đắn thay thế cái cũ sai lầm hoặc không còn phù hợp.
Nhận thức rõ hơn về xây dựng và củng cố niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với con đường cách mạng, đối với sự lãnh đạo của Đảng; chuyển hóa niềm tin ấy thành những phong trào thi đua yêu nước rộng rãi, góp phần tạo nên thế và lực mới cho đất nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
Sáu là, nhận thức rõ hơn về công tác kiểm tra, giám sát.
Các cấp ủy, tổ chức đảng được xác định phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Bổ sung chức năng giám sát và xác định rõ hơn, cụ thể hơn nội dung kiểm tra, giám sát, trong đó chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu.
Bảy là, nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng có bước tiến mới.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội VIII, IX và X, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo của Đảng đã từng bước phát triển, cụ thể hơn, rõ hơn về phương thức lãnh đạo đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo Nhà nước. Đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”(2).
Tám là, nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về dân chủ, dân chủ trong Đảng.
Nhận thức dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Đảng đã bổ sung nội dung dân chủ vào hệ mục tiêu của đổi mới: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng đồng thời với giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức về Đảng và công tác xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế:
Một là, lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế chưa rõ. Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được rõ và đầy đủ.
Hai là, nhận thức về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng còn có những điểm chưa thật rõ.
Nhận thức về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, còn coi Nhà nước tách biệt với tổ chức đảng, thuần túy là đối tượng lãnh đạo của Đảng. Chưa xử lý được quan hệ giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, nhất là chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, với nguyên tắc tuân thủ chính sách, pháp luật và chế độ thủ trưởng trong các cơ quan hành pháp; nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp. Đây là một vấn đề đang nổi lên trong việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy tính chủ động của cơ quan nhà nước.
Nhận thức về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa khắc phục được tình trạng hành chính hóa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, vẫn duy trì một hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội dọc từ Trung ương đến cơ sở, với đầy đủ bộ máy ở tất cả các cấp địa phương; chưa khẳng định rõ mô hình tổ chức và đầu mối trực thuộc của các tổ chức chính trị - xã hội trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp ở các cấp. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc, với các tổ chức chính trị - xã hội và với từng tổ chức chính trị - xã hội chưa được phân biệt. Chưa giải quyết hài hòa vấn đề Đảng vừa là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc, vừa là người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc.
Ba là, nhận thức về xây dựng bản lĩnh chính trị, xây dựng tiềm lực trí tuệ còn nhiều bất cập.
Trình độ tư duy lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội cũng như công tác lý luận của Đảng vẫn còn những yếu kém, bất cập; bệnh giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa vẫn còn biểu hiện ở không ít cán bộ, đảng viên của Đảng. Không ít những vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế chưa được làm sáng tỏ, do đó chưa được thể chế hóa và đi vào cuộc sống.
Bốn là, nhận thức về công tác tư tưởng, lý luận còn hạn chế.
Tư duy của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chậm đổi mới. Nhận thức về vai trò của công tác tư tưởng của một số cấp ủy đảng và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị còn nhiều hạn chế, chưa thấy hết vị trí, tầm quan trọng của công tác tư tưởng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng. Chưa nhận thức rõ, kịp thời những âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và về “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm là, nhận thức về công tác tổ chức, cán bộ còn bất cập.
Từ việc nhận thức đến quán triệt, triển khai nghị quyết về công tác tổ chức, cán bộ chưa đồng bộ; chỉ đạo tổ chức thực hiện còn chậm và lúng túng. Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các cấp, các ngành chưa thật sự sâu sắc, thiếu tầm nhìn chiến lược. Nhận thức về các khâu trong công tác cán bộ chưa thật rõ ràng, chính xác, thực hiện không kiên quyết, triệt để dẫn đến đánh giá, bố trí cán bộ có lúc, có nơi còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu chính xác.
Sáu là, nhận thức về xây dựng văn hóa trong Đảng; xây dựng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, chưa sâu sắc.
Đặc biệt là tính tự giác tự phê bình và phê bình với tư cách một đặc trưng văn hóa trong Đảng, là quy luật phát triển Đảng không được quan tâm đúng mức. Do chưa lường hết những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, chưa có sự chuẩn bị kĩ về lập trường tư tưởng và cả cách tiếp cận mới cho đảng viên nên chưa chỉ ra những giải pháp mạnh, có tính khả thi để ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Những vấn đề thực tiễn
Những thành tựu đạt được
Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng hơn.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất định trong việc ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Hai là, công tác tư tưởng, lý luận có bước tiến mới.
Về công tác lý luận: đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới; bước đầu làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại; đã tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng, góp phần làm sáng tỏ nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng: nhiệm vụ xây dựng chuẩn mực, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cán bộ, đảng viên gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng. Công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch đã chủ động hơn.
Ba là, công tác tổ chức, cán bộ được triển khai tương đối đồng bộ.
Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và các loại hình doanh nghiệp.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hóa thành các quy chế, quy định. Các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, thực hiện chính sách cán bộ đã được triển khai đồng bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao chất lượng. Trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực lãnh đạo, tổ chức, điều hành công việc... ngày càng được nâng cao. Công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng được coi trọng.
Bốn là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng cao.
Năng lực lãnh đạo thể hiện ở việc hoạch định đường lối, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đúng đắn, sát với thực tế phát triển của đất nước. Sức chiến đấu của Đảng được nâng cao thể hiện ở chỗ làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy đảng có ý chí vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức, dũng cảm đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan; kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Năm là, phương thức lãnh đạo của Đảng có bước đổi mới.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng. Phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng và đảng viên đã được đổi mới theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn. Đồng thời, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước.
Những hạn chế, khuyết điểm
Những hạn chế, khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) đến nay vẫn tồn tại, cụ thể:
Một là, chưa thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng, để những yếu kém, khuyết điểm tồn đọng qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục. Việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng thiếu quyết liệt, tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi” vẫn còn.
Hai là, các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình chưa được nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thực hiện nghiêm. Dân chủ hình thức và bệnh thành tích khá phổ biến ở các tổ chức đảng và đảng viên.
Ba là, công tác tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra; chất lượng các sản phẩm nghiên cứu lý luận chưa cao, lý luận chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, bộ máy tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả. Công tác cán bộ còn nhiều kẽ hở vẫn còn tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy bằng cấp...
Năm là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu. Đội ngũ đảng viên đông nhưng không mạnh.
Sáu là, nhiều cấp ủy đảng, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Bảy là, một số tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa quan tâm đổi mới công tác dân vận. Phương thức vận động nhân dân chậm đổi mới, còn mang nặng tính hành chính.
Tám là, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn chậm đổi mới. Phong cách, lề lối làm việc còn nặng tính hành chính. Các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình... ở một số tổ chức đảng còn bị vi phạm. Phương thức cầm quyền chưa được xác định rõ, hiệu lực, hiệu quả cầm quyền còn hạn chế.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Những vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng sau gần 30 năm đổi mới
Thứ nhất, giữa lý luận và thực tiễn còn có khoảng cách lớn, thực tiễn của cách mạng nước ta phát triển phong phú, đa dạng, song lý luận chưa kịp thời tổng kết, khái quát được đầy đủ theo kịp thực tiễn. Một số vấn đề lý luận rất then chốt, cơ bản, như Đảng cầm quyền, kinh tế thị trường, mô hình tăng trưởng, mô hình của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, hệ giá trị của con người Việt Nam... chưa được làm rõ. Vì vậy, dẫn đến lúng túng hoặc tùy tiện trong chỉ đạo thực tiễn.
Đảng ban hành nghị quyết quá nhiều, nhưng một số nghị quyết chưa đủ rõ, chưa phản ánh được thực tiễn cuộc sống, chậm đi vào đời sống, khâu tổ chức thực hiện vẫn yếu, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ hai, yêu cầu cách mạng ngày càng cao, nặng nề đối với một đảng cầm quyền, song đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu; còn có sự hẫng hụt đối với cán bộ lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Thứ ba, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, dẫn tới nguy cơ làm cho Đảng suy yếu, mất quyền lãnh đạo.
Thứ tư, lòng tin của cán bộ, đảng viên, của nhân dân đối với Đảng giảm sút nghiêm trọng.
Thứ năm, Đảng có biểu hiện buông lỏng lãnh đạo đối với Quốc hội, Chính phủ và một số tổ chức. Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được cụ thể hóa nên còn có hiện tượng bao biện, chồng chéo, lấn sân.
Thứ sáu, các nguy cơ đối với vai trò cầm quyền của Đảng
Đảng ta đang đứng trước nhiều nguy cơ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ sai lầm về đường lối, chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ tham nhũng, lãng phí; nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng; nguy cơ “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nguy cơ “lợi ích nhóm”.
Nguy cơ sai lầm về đường lối, chệch hướng xã hội chủ nghĩa có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong nước cũng như trên thế giới và trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, nguy cơ này thường chỉ diễn ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp hoạch định đường lối, chính sách.
Nguy cơ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến phai nhạt lý tưởng, tham nhũng, xa rời nhân dân và dễ sa vào tệ nạn. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chính là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ tốt sang xấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đây chính là một nguyên nhân cơ bản, chủ yếu nhất dẫn tới giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, dần mất đi vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Giải pháp xây dựng Đảng trong tình hình mới
Để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Tình hình mới đòi hỏi vừa phải kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ, hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc, vừa phải tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội; đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đường lối xây dựng Ðảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tăng cường công tác tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý luận làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, nhất là vấn đề đảng cầm quyền. Công tác lý luận phải hướng vào những vấn đề cuộc sống đặt ra, phục vụ công cuộc đổi mới. Đối với vấn đề đảng cầm quyền, phải dự báo các xu hướng phát triển, góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ba là, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, “lợi ích nhóm” có hiệu quả; phòng ngừa, loại trừ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong Đảng ra và từ trên xuống. Kiên quyết, kiên trì xây dựng một cơ chế phòng ngừa không thể tham nhũng; một cơ chế trừng trị, răn đe để không dám tham nhũng; một cơ chế bảo đảm để không có tham nhũng.
Bốn là, xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm việc kê khai và công khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Năm là, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Sáu là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác đối với những cán bộ tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ. Phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền.
Bảy là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Ðảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nghiên cứu làm rõ hơn phương thức cầm quyền của Đảng. Khắc phục cả hai nguy cơ: lạm quyền và mất quyền./.
-------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88
(2) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 88
Nguồn: TCCS