Truy cập hiện tại

Đang có 78 khách và không thành viên đang online

Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, chuẩn bị tốt công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, bảo đảm thành công Đại hội XII của Đảng

Quá trình lãnh đạo cách mạng hơn 85 năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn “Cán bộ là gốc của công việc; mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhiều lần nhấn mạnh “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt thì công tác cán bộ là then chốt của nhiệm vụ then chốt”.

1- Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, từ phát hiện, tuyển chọn, nhận xét, đánh giá, đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, bổ nhiệm, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Các khâu của công tác cán bộ là một thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau; khi thực hiện tốt khâu này sẽ là tiền đề và cơ sở để thực hiện tốt các khâu khác và ngược lại, nếu một khâu nào đó thực hiện chưa tốt, không đúng quy trình sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khâu khác và kết quả chung của công tác cán bộ. Vì vậy, trong công tác cán bộ, phải kết hợp chặt chẽ và thực hiện đồng bộ tất cả các khâu, không được coi nhẹ hoặc bỏ qua một khâu nào.

Trong những năm gần đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế,... về công tác cán bộ, như Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII có Nghị quyết số 03-NQ/TW “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Bộ Chính trị khóa IX có Nghị quyết số 11-NQ/TW “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” và Nghị quyết số 42-NQ/TW “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X có Kết luận số 37-KL/TW “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI có Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Quyết định số 244-QĐ/TW về ban hành “Quy chế Bầu cử trong Đảng”; Bộ Chính trị khóa XI có Kết luận số 24-KL/TW “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo” và Chỉ thị số 36-CT/TW “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”,...

Để cụ thể hóa việc thực hiện các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành nhiều hướng dẫn để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng, trong đó có Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW, ngày 05-11-2012, “Công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW, ngày 18-8-2014, “Công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”,...

Quán triệt sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm và giải pháp lớn về công tác cán bộ đã được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các quy chế, quy định, quy trình và hướng dẫn để thực hiện. Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ đã khắc phục được một số hạn chế, bất cập và từng bước đi vào nền nếp, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, chặt chẽ hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện đẩy mạnh việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược được quan tâm chỉ đạo, triển khai tích cực và đạt được một số kết quả bước đầu. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường hơn và đạt một số kết quả bước đầu. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp kéo dài đã kịp thời được phát hiện, điều tra và xử lý nghiêm minh, được dư luận trong Đảng và trong xã hội hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ.

Tuy nhiên, công tác cán bộ nói chung và trong từng khâu của công tác cán bộ nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đạt được mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Cụ thể là: Việc nhận xét, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhưng chậm được khắc phục; chưa lấy kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu để đánh giá. Công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ chất lượng chưa đồng đều, chưa có tầm nhìn xa và chưa bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi; quy hoạch cán bộ chưa thực sự gắn với đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ; chưa có sự liên thông giữa cấp dưới với cấp trên, giữa địa phương với Trung ương và giữa các ngành, các lĩnh vực công tác với nhau. Việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển trong một số trường hợp còn bất hợp lý, thậm chí còn trái ngành, trái nghề, vừa không đáp ứng được yêu cầu đào tạo, vừa hạn chế sự đóng góp của cán bộ luân chuyển. Cơ chế quản lý, giám sát và chế độ chính sách đối với cán bộ luân chuyển chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ sau luân chuyển có trường hợp còn bất cập, thiếu chính xác…

2- Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ hiện nay và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ công tác cán bộ trong những năm tới, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung chính sau:

Một là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, trước hết là đổi mới công tác đánh giá cán bộ. Tiến hành xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh, theo hiệu quả công việc và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Công khai lĩnh vực công tác, chỉ tiêu nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ để đảng viên và nhân dân theo dõi, giám sát, góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm và thông qua đó để xem xét, đánh giá cán bộ. Đánh giá, lựa chọn cán bộ thông qua cơ chế thi tuyển, sát hạch hằng năm đối với cán bộ từ cấp cục, vụ và tương đương trở xuống. Xây dựng phương thức đánh giá cán bộ trong mối quan hệ biện chứng giữa kết quả thi, sát hạch và năng lực, thành tích công tác, uy tín, sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Gắn đánh giá cán bộ và lấy phiếu tín nhiệm theo định kỳ với kiểm điểm, tự phê bình và phê bình hằng năm theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng.

Hai là, đổi mới công tác tạo nguồn cán bộ theo hướng lựa chọn những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học có chất lượng bố trí về công tác tại cơ sở (những nơi khó khăn, có nhu cầu) để đào tạo trong thực tiễn, từ đó chọn lọc nguồn quy hoạch cán bộ lâu dài. Xây dựng, thực hiện cơ chế tiến cử cán bộ; cơ chế người đứng đầu đề xuất, chuẩn bị người quy hoạch thay thế mình, người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ cấp ủy.

Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch theo chức danh cán bộ, gắn lý thuyết với thực hành và kỹ năng xử lý những tình huống nảy sinh trong thực tiễn đối với từng chức danh, ở từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực công tác. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức về phương pháp tư duy và tầm nhìn chiến lược; nâng cao nhận thức và giải pháp ứng xử, đề phòng, giải quyết các vấn đề mới nảy sinh của quốc gia và quốc tế cho các đối tượng cán bộ dự nguồn cao cấp. Xây dựng và thực hiện chế độ tập sự lãnh đạo, quản lý; cán bộ chủ chốt cấp trên nói chung phải kinh qua chức danh lãnh đạo chủ chốt ở cấp dưới để qua đó đào tạo, thử thách cán bộ. Đẩy mạnh việc cập nhật kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả đối với các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cải tiến nội dung, phương pháp, quy trình kiểm tra, sát hạch, thi cử, bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp và tuyệt đối hóa bằng cấp của cả cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.

Bốn là, thực hiện nghiêm cơ cấu 3 độ tuổi trong quy hoạch cấp ủy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Cấp có thẩm quyền chỉ phê duyệt, xác nhận quy hoạch hoặc thông qua phương án nhân sự cấp ủy khi quy hoạch hoặc phương án nhân sự đáp ứng được yêu cầu này. Việc bổ sung ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy trong nhiệm kỳ chủ yếu bổ sung cán bộ trẻ, cán bộ nữ, đủ tuổi tham gia từ 2 nhiệm kỳ trở lên nhằm đào tạo và chuẩn bị nhân sự cho các khóa tiếp theo. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cần bảo đảm 3 độ tuổi trong lãnh đạo ở từng cấp; đối với cấp huyện và tương đương trở lên nhất thiết phải có cán bộ nữ trong cơ cấu lãnh đạo. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển đối với cán bộ trong quy hoạch; cấp có thẩm quyền khi phê duyệt hoặc xác nhận quy hoạch phải đồng thời phê duyệt, xác nhận kế hoạch luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch của cấp dưới.

Năm là, đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn. Tiếp tục thực hiện việc bố trí một số chức danh lãnh đạo, quản lý ở cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và từng bước nghiên cứu để thực hiện ở cấp xã. Thực hiện việc phân công cán bộ trong quy hoạch các chức danh cấp chiến lược đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở các địa bàn, lĩnh vực quan trọng, vùng có nhiều khó khăn để đào tạo, thử thách, tích lũy kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục thực hiện chủ trương tăng thêm một số chức danh lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền ở những địa phương có nhiều khó khăn, hoặc ở những nơi đội ngũ cán bộ thiếu nhằm vừa kết hợp luân chuyển để đào tạo cán bộ, vừa tăng cường thêm cán bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở các địa phương.

3- Hiện nay, các đảng bộ trực thuộc Trung ương đã hoàn thành đại hội đảng bộ cấp cơ sở, đang chỉ đạo tiến hành đại hội đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở và khẩn trương chuẩn bị cho đại hội đảng bộ cấp tỉnh theo Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30-5-2014, của Bộ Chính trị, về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đại hội đảng bộ ở mỗi cấp tuy có những nội dung cụ thể và phạm vi khác nhau, nhưng đại hội đảng bộ ở cấp nào cũng đều có hai nội dung rất quan trọng là: Tổng kết thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ qua; xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của đảng bộ nhiệm kỳ tới và bầu ra ban chấp hành đảng bộ có đủ phẩm chất, năng lực để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết mà đại hội đề ra. Trong hai nội dung quan trọng đó, thì việc chuẩn bị và bầu ra ban chấp hành đảng bộ thực sự tiêu biểu cho phẩm chất, năng lực và trí tuệ của đảng bộ là nhiệm vụ quan trọng số một. Thực tiễn cho thấy, nếu việc xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ cho nhiệm kỳ tới chưa thật đầy đủ, phù hợp, thì trong nhiệm kỳ, cấp ủy sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện; song, nếu việc chuẩn bị và bầu cử cấp ủy nhiệm kỳ tới có những trường hợp không bảo đảm tiêu chuẩn thì việc bổ sung, thay thế sẽ khó khăn, phức tạp hơn và để lại những hậu quả rất nặng nề.

Để chuẩn bị tốt công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp (cả nhân sự cấp ủy và nhân sự đoàn đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên), nhất là đối với cấp tỉnh, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự tham gia cấp ủy các cấp nhiệm kỳ tới phải đặc biệt coi trọng về tiêu chuẩn, trước hết là căn cứ vào quy hoạch cấp ủy, gắn với quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cùng cấp nhiệm kỳ tới. Chú trọng phát hiện, giới thiệu những nhân tố mới thực sự có đức, có tài, có triển vọng phát triển, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số để bảo đảm tính kế thừa, phát triển liên tục của đội ngũ cấp ủy. Các cấp ủy viên phải là người tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có ý thức tổ chức, kỷ luật, gắn bó mật thiết với nhân dân và được cán bộ, đảng viên, nhân dân tín nhiệm; có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ tương ứng và có đủ sức khỏe để thực hiện tốt các nhiệm vụ được phân công.

Thứ hai, khi xem xét tiêu chuẩn của cấp ủy viên, cần đặc biệt coi trọng lập trường tư tưởng chính trị; hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ được phân công; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, nắm bắt kịp thời và xử lý có hiệu quả những vấn đề mới phát sinh; có phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thái độ nghiêm túc trong việc khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm đã được kết luận sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng. Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy những người bản lĩnh chính trị không vững vàng, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực; phẩm chất đạo đức, lối sống không trong sáng; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ, “lợi ích nhóm”; bản thân hoặc vợ (chồng), con vi phạm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm ảnh hưởng tới uy tín của cơ quan, đơn vị và bản thân cán bộ đó; những đảng viên vi phạm quy định của Ban Chấp hành Trung ương về tiêu chuẩn chính trị và những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm,...

Thứ ba, trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, các cấp ủy cần có cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy, nhưng không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn cấp ủy viên. Các cấp ủy cần có ba độ tuổi, phấn đấu có ba độ tuổi trong ban thường vụ và thường trực cấp ủy; phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ không dưới 15% và cần có nữ trong ban thường vụ; tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi (dưới 40 tuổi đối với cấp ủy tỉnh và dưới 35 đối với cấp ủy huyện) không dưới 10% tổng số cấp ủy viên; tỷ lệ cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân tộc của từng địa phương và phải bằng hoặc cao hơn khóa hiện nay. Nếu ở đầu nhiệm kỳ, nơi nào chưa chuẩn bị được cơ cấu nêu trên thì cần bầu số lượng cấp ủy ít hơn so với quy định, số còn lại sẽ tiếp tục chuẩn bị và bổ sung trong nhiệm kỳ mới. Các cấp ủy cần đổi mới không dưới 1/3 so với số lượng cấp ủy đầu nhiệm kỳ 2010 - 2015; trường hợp số cấp ủy viên đủ tuổi tái cử cao hơn thì việc lựa chọn cấp ủy viên tái cử phải căn cứ vào trình độ, năng lực thực tiễn, kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao, nhu cầu bố trí cấp ủy viên và sự tín nhiệm đối với cán bộ đó thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm của cấp ủy từ cao đến thấp.

Thứ tư, sau đại hội đảng bộ các cấp, các cấp ủy cần chú trọng công tác tư tưởng và làm tốt việc phân công nhiệm vụ cho các cấp ủy viên. Nói chung, các đồng chí không tham gia cấp ủy thì thôi giữ các chức vụ lãnh đạo chính quyền mà chức danh đó cần cơ cấu cấp ủy viên. Đối với cán bộ ở cấp tỉnh và huyện, những đồng chí còn từ hai năm (24 tháng) công tác trở lên mới đủ thời gian nghỉ hưu, có phẩm chất, năng lực và tín nhiệm, có sức khỏe tốt và có nguyện vọng tiếp tục công tác thì xem xét, bố trí công tác cho phù hợp. Những đồng chí còn dưới hai năm công tác, nếu không bố trí được công tác phù hợp thì nghỉ công tác, giữ nguyên một số chế độ chờ đủ thời gian nghỉ hưu. Những trường hợp không đủ thời gian tái cử cấp ủy mà có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi thì giải quyết nghỉ hưu sớm và thực hiện chế độ, chính sách theo Nghị định số 26/2015/NĐ-CP ngày 09-3-2015 của Chính phủ./.

Trần Lưu Hải
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức TW
Nguồn: TCCS
Tiến tới đại hội đảng
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
37029165