Nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật Nguyễn Chánh Sắt
- Được đăng: Thứ ba, 16 Tháng 10 2018 08:47
- Lượt xem: 6060
(TGAG)- Nguyễn Chánh Sắt tự là Bá Nghiêm, hiệu Tân Châu, bút hiệu Du Nhiên Tử, Vĩnh An Hà, có khi ông ghi Nguyễn Chánh Sắt, hay Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt.
Nguyễn Chánh Sắt sanh năm 1871 - Tân Mùi (1), tại làng Long Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc phường Long Hưng, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang) trong một gia đình nghèo khó, họ Trần (2). Lúc nhỏ được cha mẹ đem cho một gia đình cùng xóm, khá giả, lớn tuổi lại không có con nối dõi. Cha nuôi tên Nguyễn Văn Bửu (1822-1892) và mẹ nuôi tên Đặng Thị Nghiêm (1834-1894), ông được cha mẹ nuôi đặt tên Nguyễn Chánh Sắt. Thấy Nguyễn Chánh Sắt mặt mày sáng láng, khí chất thông minh, cha mẹ nuôi cho cho cậu Sắt học chữ Hán với tú tài Trần Hữu Thường. Thời bấy giờ, Pháp đã chiếm Nam Kỳ, dưỡng phụ ông thấy việc học chữ Hán là không hợp thời, nên cho ông qua Châu Đốc học trường tiểu học Pháp – Việt (3).
Đậu xong bằng Tiểu học Pháp - Việt, tuổi vừa trưởng thành, cha mẹ nuôi muốn sớm có cháu bồng bế, nên xúc tiến việc cưới vợ cho ông. Vợ ông tên Văng Thị Yên (1872-1944), người gốc Hoa, cùng quê.
Khi cha mẹ nuôi quá vãng, đôi vợ chồng trẻ phải tự lực trong cuộc sống. Bà lo buôn bán tại chợ Tân Châu, ông lo việc nhà và tự học thêm chữ Nho, chữ Pháp và rèn luyện chữ Quốc ngữ. Nhờ biết tiếng Pháp, Nguyễn Chánh Sắt quen với thiếu tá De Colbert và được De Colbert mời tham gia làm việc ở hãng tằm tơ Tân Châu. Sau đó thiếu tá De Colbert được chính quyền thuộc địa giao đảm nhiệm chức giám đốc đề lao Côn Nôn (Côn Đảo). Nguyễn Chánh Sắt được De Colbert mời theo làm thông ngôn, thực chất là người thân tín của De Colbert (4). Tại nơi đây, Nguyễn Chánh Sắt có dịp gặp những nhà nho có khoa bảng bị lưu đày vì tội yêu nước. Ông đã bảo lãnh cho những bậc túc nho này được lao dịch nhẹ nhàng ở Dinh Chúa đảo và tự do đi lại trên đảo. Cảm mến điều đó, những nhà nho yêu nước bị lưu đày đã giúp ông học tiếp chữ Hán và chắc chắn tình cảm yêu nước cũng đồng thời được lan truyền cho ông. Qua các tài liệu còn lưu trữ ở Nhà tù Côn Đảo, thời gian này ông không làm điều gì có tội ác đối với những người tù yêu nước, mà còn đùm bọc, chở che.
Sau gần 3 năm, đến cuối năm 1898, De Colbert bị bệnh kiết lỵ nặng, điều trị không khỏi, phải tử vong. Mất chỗ dựa, Nguyễn Chánh Sắt xin thôi việc, rời khỏi Côn Nôn về Sài Gòn. Vì sinh kế gia đình, ông xin làm công chức ở nhiều Sở: Canh nông, Công chánh, Địa chánh. Công việc không thích hợp, ông nghỉ việc rồi xin đi dạy học chữ Hán ở trường trung học Tabert. Nhờ đi dạy học, thời gian này, Nguyễn Chánh Sắt làm quen với Canavaggio - một người Pháp có thế lực, là một chủ đồn điền và thương gia, đồng thời là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ. Sau đó, ông được Canavaggio cử xuống Bạc Liêu trông coi việc khai thác ở ruộng muối của Canavaggio.
Công việc trông coi ruộng muối cũng không phù hợp với ông, năm 1901 ông trở lại Sài Gòn, cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm ngay từ số đầu tiên (5) và khởi đầu dịch truyện tàu. Đây là tờ báo quốc ngữ đầu tiên của tư nhân chuyên bàn về kinh tế, do Canavaggio làm chủ nhơn (chủ nhiệm). Tác phẩm dịch đầu tay của ông là bộ Tây Hớn. Đây là thời kỳ chữ Quốc Ngữ còn rất phôi thai. Nhưng nhờ quá trình rèn luyện, học tập tích cực với các nhà nho có khoa bảng của các phong trào yêu nước ở Côn Đảo, cộng với quá trình tự học liên tục. Sách lại in vào thời điểm thị trường chưa có truyện tàu chuyển sang chữ quốc ngữ nên bán rất chạy, nhuận bút tăng vọt, cuộc sống của ông khá lên.
Đến năm 1907, ông hợp tác cùng Trần Chánh Chiếu làm báo Lục Tỉnh tân văn (Trần Chánh Chiếu làm chủ bút), tham gia tích cực vào phong trào Minh Tân (phong trào Duy Tân ở Miền Nam) do Trần Chánh Chiếu khởi xướng và tham gia thành lập Nam kỳ Minh Tân công nghệ đầu 1908 (6). Phong trào Minh Tân “là một phong trào chính trị tương đương với phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Bắc Trung, hai bên có quan hệ với nhau” (7). Ông được phân công xuống Mỹ Tho, quản lý một cơ sở mang tên Minh Tân khách sạn, tầng trên là khách sạn, tầng dưới bán cơm, bán rượu tây.
Cuối năm 1908, sau vụ “biểu tình chống thuế ở Trung kỳ” và “Hà thành đầu độc” ở Hà Nội, “Pháp tình nghi (và sự thật có như vậy) rằng phong trào Minh Tân này có quan hệ với phong trào Duy Tân, Đông Du của Phan Bội Châu cho nên chúng bắt giam ngay Trần Chánh Chiếu và phá các tổ chức kinh tế của Minh Tân”(8). Trần Chánh Chiếu cùng 90 người khác bị bắt. Nguyễn Chánh Sắt nhờ quen biết với Canavaggio nên thoát khỏi giam cầm. Và có lẻ cũng nhờ ông là nhà Minh Tân ôn hòa, chủ yếu hô hào phát triển kinh tế, không quan tâm nhiều đến chính trị.
Ông được Canavaggio mời trở về cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm, chức danh là phó chủ bút (9). Ông vừa viết báo, vừa dịch thuật (Chung Vô Diệm, Thất kiếm thập tam hiệp, Kim cổ kỳ quan, Long đồ công án,… ).
Năm 1912, ông nghe lời bạn bè xuống Giá Rai (Bạc Liêu) làm ruộng. Được năm đầu, những năm sau đều thất mùa, chịu lỗ lã, nợ nần. Đến cuối năm 1916, ông quay về Sài Gòn, cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm. Lần này ông giữ chức chủ bút (9).
Đây là thời kỳ sức sáng tạo của ông rất sung sức trên cả 3 lĩnh vực: báo chí, sáng tác và dịch thuật.
Trên lĩnh vực báo chí ông viết nhiều bài chính luận về phát triển nông nghiệp, kinh doanh lúa gạo,...; về thương nghiệp và tranh thương, là người khởi xướng cuộc tranh thương với Hoa kiều, Ấn kiều,…; về vấn đề thực nghiệp và thực học; về vấn đề nữ quyền, ông là người tiên phong trong việc đặt ra vấn đề nữ quyền ở Nam bộ ngay từ năm 1917; ông còn tham gia tranh luận, bút chiến và diễn thuyết trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thời sự khác…
Về sáng tác, lúc này ông sáng tác nhiều tiểu thuyết được bạn đọc hoan nghênh, như: Gái trả thù cha, trinh tám tiểu thuyết, 4 tập, xuất bản tại Sài Gòn từ 1920 đến 1925; Tài mạng tương đố, tâm lý tiểu thuyết, 2 tập, xuất bản năm 1925; Tình đời ấm lạnh, lý tưởng tiểu thuyết, in trong sách Thiên Sanh đường Đại dược phòng ở Chợ Lớn; Lòng người nham hiểm, tiểu thuyết, in tại Sài Gòn năm 1926; Một đôi hiệp khách, nghĩa hiệp tiểu thuyết, xuất bản năm 1929 tại Sài Gòn; Man hoang kiếm hiệp, tiểu thuyết, nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn ấn hành; Giang hồ nữ hiệp, tiểu thuyết, nhà in Đức Lưu Phương xuất bản; Trinh hiệp lưỡng mỹ, nghĩa hiệp tiểu thuyết, xuất bản tại Chợ Lớn; Việt Nam Lê Thái Tổ, nhà in Đức Lưu Phương xuất bản tại Sài Gòn năm 1929,… Đặc biệt, cuốn nổi tiếng nhất thời bây giờ là Nghĩa hiệp kỳ duyên, tức Chăn-Cà-Mum, kim thời tiểu thuyết, in trong sách Vệ sinh chỉ nam, của nhà thuốc Nhị Thiên Đường, xuất bản tại Sài Gòn năm 1919. Ngoài ra ông còn viết nhiều du ký, nhiều bài văn tế và làm thơ.
Về dịch thuật, ông tiếp tục dịch một số truyện tàu như Liêu trai chí dị, Trung Quốc cổ kim lược ký, Tái sanh duyên - Mạnh Lệ Quân toàn truyện, Thập nhị quả phụ chinh tây, Anh hùng náo tam môn giai,…
Ông còn tham gia thành lập Nam kỳ nhựt báo Ái hữu hội và được bầu đi dự hội chợ Hà Nội năm 1920. Năm này, nhân dịp về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn, ông được dân chúng quí trọng, công cử chức Hương quan trong Ban Quản trị đình Long Phú. Ông đã ra Huế thỉnh Sắc thần và được Triều đình Huế ân tứ Sắc thần cho đình Long Phú. Năm 1921, ông được đề cử Hội thẩm Tòa Đại hình Sài Gòn.
Năm 1922, ông trở về quê nhà Tân Châu, sống cảnh an nhàn, vừa viết báo, vừa hoạt động xã hội.
Ông mất vào ngày 8/5/1946 (18/4 năm Bính Tuất), hưởng thọ 76 tuổi. Hiện nay, bài vị của ông còn được thờ tại đình Long Phú, phường Long Hưng, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
Tác phẩm của ông để lại đã khẳng định tài năng và nhân cách của một nhà văn, nhà báo có nhiều tâm huyết với nghề và sự phát triển của quê hương, đất nước.
Về dịch thuật: Nguyễn Chánh Sắt là người đầu tiên dịch truyện Tàu, trong đó có những truyện nổi tiếng của Trung Hoa để giới thiệu rộng rãi đến người đọc Việt Nam, như Tây Hớn, Đông Chu liệt quốc, Tam quốc diễn nghĩa, Anh hùng náo tam môn giai, Kim cổ kỳ quan,… góp phần mở mang kiến thức, học tập tinh hoa của người xưa.
Về báo chí: Nguyễn Chánh Sắt là người am hiểu nho học, lại có tư tưởng minh tân, mạnh dạn dùng ngòi bút và loại hình báo chí để phân tích, trình bày sâu sắc về thực trạng nông nghiệp, thương nghiệp của nước nhà, đề ra giải pháp phát triển nông nghiệp, thương nghiệp, tranh thương, thực nghiệp đem lại lợi ích cho dân tộc, đất nước. Ông cũng là người tiên phong đấu tranh nữ quyền. Về giáo dục. ông cho rằng một trong những nguyên nhân căn bản khiến nền kinh tế của ta còn yếu kém là bởi chúng ta chưa chú trọng nâng cao dân trí, cho nên phổ cập giáo dục theo ông hiện là vấn đề cấp bách.
Về văn học: Nguyễn Chánh Sắt là người An Giang đầu tiên viết văn làm báo và xuất bản tiểu thuyết, sách dịch. Tác phẩm của ông đóng góp rất lớn trong việc truyền bá quốc ngữ, hình thành và phát triển văn xuôi Nam bộ nói riêng, Việt Nam nói chung; là tiền đề cho một nền văn xuôi phong phú, đa dạng và đặc sắc sau nầy. Ý nghĩa nhất là góp phần xây dựng một nền văn học đại chúng hóa, đưa tác phẩm văn chương, luân lý phổ cập sâu rộng trong đời sống tinh thần của người dân đang thiếu thốn về hưởng thụ văn hóa, văn nghệ dân tộc.
Nguyễn Chánh Sắt là một trí thức từng trải, đi nhiều nơi, làm nhiều nghề. Ông có làm việc cho vài cơ quan và cá nhân của Pháp nhưng chưa có tài liệu nào chứng tỏ ông một lòng, một dạ phục vụ cho Pháp hay quay lưng chống lại các phong trào yêu nước, tiến bộ. Hơn nữa, với những hoạt động kinh tế - xã hội trong Nam kỳ Minh Tân công nghệ (phong trào Minh Tân) và những hoạt động báo chí, văn học trên Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh tân văn và các di sản để lại, đủ để khẳng định ông là một người yêu nước nhiệt thành, đã tham gia nhiệt tình vào phong trào yêu nước Minh Tân ở Nam bộ, thực hiện “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, có nhiều tư tưởng tiến bộ trên nhiều lĩnh vực: nông nghiệp, thương nghiệp, thực nghiệp, thực học, nữ quyền và giáo dục… Ông xứng đáng có một chỗ đứng trong lịch sử Việt Nam cận đại.
(1) Sau khi đối chiếu với năm mất của cha mẹ nuôi và năm sinh của vợ ông, bà Văn Thị Yên, chúng tôi thấy tuổi ông ghi trên bia mộ (năm 1871) là hợp lý hơn. Bởi vì theo Nguyễn Văn Kiềm, ông sinh 1869 mà lấy vợ năm 17 tuổi (năm 1886) thì lúc ấy bà Văn Thị Yên chỉ mới 14 tuổi. Vả lại, không thể có chuyện sau khi sinh con, cha mẹ nuôi lần lượt qua đời vì cha nuôi Nguyễn Văn Bửu mất năm 1892 và mẹ nuôi Đặng Thị Nghiêm mất năm 1894. Do vậy, chúng tôi đồng ý với sự khẳng định của hậu duệ của ông, Nguyễn Chánh Sắt sinh năm 1871, đến năm 17, 18 tuổi (1888, 1889) ông tốt nghiệp tiểu học Pháp Việt (cũng như sau đó Bác Tôn Đức Thắng tốt nghiệp tiểu học Pháp Việt tại trường Long Xuyên năm 18 tuổi – 1906), rồi gia đình xúc tiến lập gia đình cho ông, khoảng 1889, 1890. Do vậy sau khi có đứa con đầu, cha mẹ nuôi lần lượt qua đời…
(2) Nguyễn Chánh Sắt có người anh ruột là Trần Văn Ngươn. Con ông Ngươn là Trần Thái Bạch được cho Nguyễn Chánh Sắt làm con nuôi. Ông Trần Thái Bạch có người con gái là Trần Thị Lượng (Bảy Lượng) hiện còn sống tại thị xã Tân Châu.
(3) Lúc bấy giờ, Pháp đã chiếm xong Nam Kỳ, đang tấn công ra Bắc Kỳ. Do đó chúng chỉ mở ở mỗi hạt tham biện (arrondissement) một trường tiểu học. Tân Châu thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay, có được 2 trường tiểu học, 1 ở Long Xuyên, 1 ở Châu Đốc
(4) Theo các tài liệu lưu trữ của nhà tù Côn Đảo, thiếu tá De Colbert Turgis là giám đốc thứ 19, thời gian từ 1896 – 1898.
(5) Tờ Nông Cổ Mín Đàm số đầu tiên ra ngày 1/8/1901.
(6) Các tài liệu liên quan đến tiểu sử Nguyễn Chánh Sắt đều ghi là Nam Kỳ kỹ nghệ công ty, nhưng các sử liệu liên quan đến Phong trào Minh Tân, kể cả trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đều ghi là Nam kỳ Minh Tân công nghệ, do vậy chúng tôi chỉnh lại cho phù hợp sử liệu.
(7), (8) Nhận xét của Trần Văn Giàu trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, trang 264.
(9) Theo nhà nghiên cứu Lưu Hồng Sơn, Trung tâm Văn học và Ngôn ngữ học, Viện KHXH vùng Nam Bộ, trong “Nguyễn Chánh sắt trên Nông Cổ Mín Đàm”, thì:
+ Nguyễn Chánh Sắt tham gia cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm ngay từ số đầu tiên.
+ Từ 1910 đến năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt là Phó chủ bút.
+ Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút từ 01/01/1917 đến 1922.
+ Trên Nông Cổ Mín Đàm số ra ngày 01/4/1922, đăng Lời Cáo thối của Nguyễn Chánh Sắt. Từ đó, không thấy bút danh Nguyễn Chánh Sắt xuất hiện trên Nông Cổ Mín Đàm.
Tài liệu tham khảo:
1- Địa chí An Giang.
2- Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
3- Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế, Nhân vật lịch sử Việt Nam.
4- Nguyễn Văn Kiềm, Tân Châu (1870-1964).
5- Đinh Hữu Chí, Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Chánh Sắt (1871-1946).
Nguyễn Chánh Sắt sanh năm 1871 - Tân Mùi (1), tại làng Long Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc phường Long Hưng, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang) trong một gia đình nghèo khó, họ Trần (2). Lúc nhỏ được cha mẹ đem cho một gia đình cùng xóm, khá giả, lớn tuổi lại không có con nối dõi. Cha nuôi tên Nguyễn Văn Bửu (1822-1892) và mẹ nuôi tên Đặng Thị Nghiêm (1834-1894), ông được cha mẹ nuôi đặt tên Nguyễn Chánh Sắt. Thấy Nguyễn Chánh Sắt mặt mày sáng láng, khí chất thông minh, cha mẹ nuôi cho cho cậu Sắt học chữ Hán với tú tài Trần Hữu Thường. Thời bấy giờ, Pháp đã chiếm Nam Kỳ, dưỡng phụ ông thấy việc học chữ Hán là không hợp thời, nên cho ông qua Châu Đốc học trường tiểu học Pháp – Việt (3).
Khi cha mẹ nuôi quá vãng, đôi vợ chồng trẻ phải tự lực trong cuộc sống. Bà lo buôn bán tại chợ Tân Châu, ông lo việc nhà và tự học thêm chữ Nho, chữ Pháp và rèn luyện chữ Quốc ngữ. Nhờ biết tiếng Pháp, Nguyễn Chánh Sắt quen với thiếu tá De Colbert và được De Colbert mời tham gia làm việc ở hãng tằm tơ Tân Châu. Sau đó thiếu tá De Colbert được chính quyền thuộc địa giao đảm nhiệm chức giám đốc đề lao Côn Nôn (Côn Đảo). Nguyễn Chánh Sắt được De Colbert mời theo làm thông ngôn, thực chất là người thân tín của De Colbert (4). Tại nơi đây, Nguyễn Chánh Sắt có dịp gặp những nhà nho có khoa bảng bị lưu đày vì tội yêu nước. Ông đã bảo lãnh cho những bậc túc nho này được lao dịch nhẹ nhàng ở Dinh Chúa đảo và tự do đi lại trên đảo. Cảm mến điều đó, những nhà nho yêu nước bị lưu đày đã giúp ông học tiếp chữ Hán và chắc chắn tình cảm yêu nước cũng đồng thời được lan truyền cho ông. Qua các tài liệu còn lưu trữ ở Nhà tù Côn Đảo, thời gian này ông không làm điều gì có tội ác đối với những người tù yêu nước, mà còn đùm bọc, chở che.
Sau gần 3 năm, đến cuối năm 1898, De Colbert bị bệnh kiết lỵ nặng, điều trị không khỏi, phải tử vong. Mất chỗ dựa, Nguyễn Chánh Sắt xin thôi việc, rời khỏi Côn Nôn về Sài Gòn. Vì sinh kế gia đình, ông xin làm công chức ở nhiều Sở: Canh nông, Công chánh, Địa chánh. Công việc không thích hợp, ông nghỉ việc rồi xin đi dạy học chữ Hán ở trường trung học Tabert. Nhờ đi dạy học, thời gian này, Nguyễn Chánh Sắt làm quen với Canavaggio - một người Pháp có thế lực, là một chủ đồn điền và thương gia, đồng thời là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ. Sau đó, ông được Canavaggio cử xuống Bạc Liêu trông coi việc khai thác ở ruộng muối của Canavaggio.
Công việc trông coi ruộng muối cũng không phù hợp với ông, năm 1901 ông trở lại Sài Gòn, cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm ngay từ số đầu tiên (5) và khởi đầu dịch truyện tàu. Đây là tờ báo quốc ngữ đầu tiên của tư nhân chuyên bàn về kinh tế, do Canavaggio làm chủ nhơn (chủ nhiệm). Tác phẩm dịch đầu tay của ông là bộ Tây Hớn. Đây là thời kỳ chữ Quốc Ngữ còn rất phôi thai. Nhưng nhờ quá trình rèn luyện, học tập tích cực với các nhà nho có khoa bảng của các phong trào yêu nước ở Côn Đảo, cộng với quá trình tự học liên tục. Sách lại in vào thời điểm thị trường chưa có truyện tàu chuyển sang chữ quốc ngữ nên bán rất chạy, nhuận bút tăng vọt, cuộc sống của ông khá lên.
Đến năm 1907, ông hợp tác cùng Trần Chánh Chiếu làm báo Lục Tỉnh tân văn (Trần Chánh Chiếu làm chủ bút), tham gia tích cực vào phong trào Minh Tân (phong trào Duy Tân ở Miền Nam) do Trần Chánh Chiếu khởi xướng và tham gia thành lập Nam kỳ Minh Tân công nghệ đầu 1908 (6). Phong trào Minh Tân “là một phong trào chính trị tương đương với phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Bắc Trung, hai bên có quan hệ với nhau” (7). Ông được phân công xuống Mỹ Tho, quản lý một cơ sở mang tên Minh Tân khách sạn, tầng trên là khách sạn, tầng dưới bán cơm, bán rượu tây.
Cuối năm 1908, sau vụ “biểu tình chống thuế ở Trung kỳ” và “Hà thành đầu độc” ở Hà Nội, “Pháp tình nghi (và sự thật có như vậy) rằng phong trào Minh Tân này có quan hệ với phong trào Duy Tân, Đông Du của Phan Bội Châu cho nên chúng bắt giam ngay Trần Chánh Chiếu và phá các tổ chức kinh tế của Minh Tân”(8). Trần Chánh Chiếu cùng 90 người khác bị bắt. Nguyễn Chánh Sắt nhờ quen biết với Canavaggio nên thoát khỏi giam cầm. Và có lẻ cũng nhờ ông là nhà Minh Tân ôn hòa, chủ yếu hô hào phát triển kinh tế, không quan tâm nhiều đến chính trị.
Ông được Canavaggio mời trở về cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm, chức danh là phó chủ bút (9). Ông vừa viết báo, vừa dịch thuật (Chung Vô Diệm, Thất kiếm thập tam hiệp, Kim cổ kỳ quan, Long đồ công án,… ).
Năm 1912, ông nghe lời bạn bè xuống Giá Rai (Bạc Liêu) làm ruộng. Được năm đầu, những năm sau đều thất mùa, chịu lỗ lã, nợ nần. Đến cuối năm 1916, ông quay về Sài Gòn, cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm. Lần này ông giữ chức chủ bút (9).
Đây là thời kỳ sức sáng tạo của ông rất sung sức trên cả 3 lĩnh vực: báo chí, sáng tác và dịch thuật.
Trên lĩnh vực báo chí ông viết nhiều bài chính luận về phát triển nông nghiệp, kinh doanh lúa gạo,...; về thương nghiệp và tranh thương, là người khởi xướng cuộc tranh thương với Hoa kiều, Ấn kiều,…; về vấn đề thực nghiệp và thực học; về vấn đề nữ quyền, ông là người tiên phong trong việc đặt ra vấn đề nữ quyền ở Nam bộ ngay từ năm 1917; ông còn tham gia tranh luận, bút chiến và diễn thuyết trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thời sự khác…
Về sáng tác, lúc này ông sáng tác nhiều tiểu thuyết được bạn đọc hoan nghênh, như: Gái trả thù cha, trinh tám tiểu thuyết, 4 tập, xuất bản tại Sài Gòn từ 1920 đến 1925; Tài mạng tương đố, tâm lý tiểu thuyết, 2 tập, xuất bản năm 1925; Tình đời ấm lạnh, lý tưởng tiểu thuyết, in trong sách Thiên Sanh đường Đại dược phòng ở Chợ Lớn; Lòng người nham hiểm, tiểu thuyết, in tại Sài Gòn năm 1926; Một đôi hiệp khách, nghĩa hiệp tiểu thuyết, xuất bản năm 1929 tại Sài Gòn; Man hoang kiếm hiệp, tiểu thuyết, nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn ấn hành; Giang hồ nữ hiệp, tiểu thuyết, nhà in Đức Lưu Phương xuất bản; Trinh hiệp lưỡng mỹ, nghĩa hiệp tiểu thuyết, xuất bản tại Chợ Lớn; Việt Nam Lê Thái Tổ, nhà in Đức Lưu Phương xuất bản tại Sài Gòn năm 1929,… Đặc biệt, cuốn nổi tiếng nhất thời bây giờ là Nghĩa hiệp kỳ duyên, tức Chăn-Cà-Mum, kim thời tiểu thuyết, in trong sách Vệ sinh chỉ nam, của nhà thuốc Nhị Thiên Đường, xuất bản tại Sài Gòn năm 1919. Ngoài ra ông còn viết nhiều du ký, nhiều bài văn tế và làm thơ.
Về dịch thuật, ông tiếp tục dịch một số truyện tàu như Liêu trai chí dị, Trung Quốc cổ kim lược ký, Tái sanh duyên - Mạnh Lệ Quân toàn truyện, Thập nhị quả phụ chinh tây, Anh hùng náo tam môn giai,…
Ông còn tham gia thành lập Nam kỳ nhựt báo Ái hữu hội và được bầu đi dự hội chợ Hà Nội năm 1920. Năm này, nhân dịp về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn, ông được dân chúng quí trọng, công cử chức Hương quan trong Ban Quản trị đình Long Phú. Ông đã ra Huế thỉnh Sắc thần và được Triều đình Huế ân tứ Sắc thần cho đình Long Phú. Năm 1921, ông được đề cử Hội thẩm Tòa Đại hình Sài Gòn.
Năm 1922, ông trở về quê nhà Tân Châu, sống cảnh an nhàn, vừa viết báo, vừa hoạt động xã hội.
Ông mất vào ngày 8/5/1946 (18/4 năm Bính Tuất), hưởng thọ 76 tuổi. Hiện nay, bài vị của ông còn được thờ tại đình Long Phú, phường Long Hưng, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
Tác phẩm của ông để lại đã khẳng định tài năng và nhân cách của một nhà văn, nhà báo có nhiều tâm huyết với nghề và sự phát triển của quê hương, đất nước.
Về dịch thuật: Nguyễn Chánh Sắt là người đầu tiên dịch truyện Tàu, trong đó có những truyện nổi tiếng của Trung Hoa để giới thiệu rộng rãi đến người đọc Việt Nam, như Tây Hớn, Đông Chu liệt quốc, Tam quốc diễn nghĩa, Anh hùng náo tam môn giai, Kim cổ kỳ quan,… góp phần mở mang kiến thức, học tập tinh hoa của người xưa.
Về báo chí: Nguyễn Chánh Sắt là người am hiểu nho học, lại có tư tưởng minh tân, mạnh dạn dùng ngòi bút và loại hình báo chí để phân tích, trình bày sâu sắc về thực trạng nông nghiệp, thương nghiệp của nước nhà, đề ra giải pháp phát triển nông nghiệp, thương nghiệp, tranh thương, thực nghiệp đem lại lợi ích cho dân tộc, đất nước. Ông cũng là người tiên phong đấu tranh nữ quyền. Về giáo dục. ông cho rằng một trong những nguyên nhân căn bản khiến nền kinh tế của ta còn yếu kém là bởi chúng ta chưa chú trọng nâng cao dân trí, cho nên phổ cập giáo dục theo ông hiện là vấn đề cấp bách.
Về văn học: Nguyễn Chánh Sắt là người An Giang đầu tiên viết văn làm báo và xuất bản tiểu thuyết, sách dịch. Tác phẩm của ông đóng góp rất lớn trong việc truyền bá quốc ngữ, hình thành và phát triển văn xuôi Nam bộ nói riêng, Việt Nam nói chung; là tiền đề cho một nền văn xuôi phong phú, đa dạng và đặc sắc sau nầy. Ý nghĩa nhất là góp phần xây dựng một nền văn học đại chúng hóa, đưa tác phẩm văn chương, luân lý phổ cập sâu rộng trong đời sống tinh thần của người dân đang thiếu thốn về hưởng thụ văn hóa, văn nghệ dân tộc.
Nguyễn Chánh Sắt là một trí thức từng trải, đi nhiều nơi, làm nhiều nghề. Ông có làm việc cho vài cơ quan và cá nhân của Pháp nhưng chưa có tài liệu nào chứng tỏ ông một lòng, một dạ phục vụ cho Pháp hay quay lưng chống lại các phong trào yêu nước, tiến bộ. Hơn nữa, với những hoạt động kinh tế - xã hội trong Nam kỳ Minh Tân công nghệ (phong trào Minh Tân) và những hoạt động báo chí, văn học trên Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh tân văn và các di sản để lại, đủ để khẳng định ông là một người yêu nước nhiệt thành, đã tham gia nhiệt tình vào phong trào yêu nước Minh Tân ở Nam bộ, thực hiện “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, có nhiều tư tưởng tiến bộ trên nhiều lĩnh vực: nông nghiệp, thương nghiệp, thực nghiệp, thực học, nữ quyền và giáo dục… Ông xứng đáng có một chỗ đứng trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Đặng Hoài Dũng
___________________(1) Sau khi đối chiếu với năm mất của cha mẹ nuôi và năm sinh của vợ ông, bà Văn Thị Yên, chúng tôi thấy tuổi ông ghi trên bia mộ (năm 1871) là hợp lý hơn. Bởi vì theo Nguyễn Văn Kiềm, ông sinh 1869 mà lấy vợ năm 17 tuổi (năm 1886) thì lúc ấy bà Văn Thị Yên chỉ mới 14 tuổi. Vả lại, không thể có chuyện sau khi sinh con, cha mẹ nuôi lần lượt qua đời vì cha nuôi Nguyễn Văn Bửu mất năm 1892 và mẹ nuôi Đặng Thị Nghiêm mất năm 1894. Do vậy, chúng tôi đồng ý với sự khẳng định của hậu duệ của ông, Nguyễn Chánh Sắt sinh năm 1871, đến năm 17, 18 tuổi (1888, 1889) ông tốt nghiệp tiểu học Pháp Việt (cũng như sau đó Bác Tôn Đức Thắng tốt nghiệp tiểu học Pháp Việt tại trường Long Xuyên năm 18 tuổi – 1906), rồi gia đình xúc tiến lập gia đình cho ông, khoảng 1889, 1890. Do vậy sau khi có đứa con đầu, cha mẹ nuôi lần lượt qua đời…
(2) Nguyễn Chánh Sắt có người anh ruột là Trần Văn Ngươn. Con ông Ngươn là Trần Thái Bạch được cho Nguyễn Chánh Sắt làm con nuôi. Ông Trần Thái Bạch có người con gái là Trần Thị Lượng (Bảy Lượng) hiện còn sống tại thị xã Tân Châu.
(3) Lúc bấy giờ, Pháp đã chiếm xong Nam Kỳ, đang tấn công ra Bắc Kỳ. Do đó chúng chỉ mở ở mỗi hạt tham biện (arrondissement) một trường tiểu học. Tân Châu thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay, có được 2 trường tiểu học, 1 ở Long Xuyên, 1 ở Châu Đốc
(4) Theo các tài liệu lưu trữ của nhà tù Côn Đảo, thiếu tá De Colbert Turgis là giám đốc thứ 19, thời gian từ 1896 – 1898.
(5) Tờ Nông Cổ Mín Đàm số đầu tiên ra ngày 1/8/1901.
(6) Các tài liệu liên quan đến tiểu sử Nguyễn Chánh Sắt đều ghi là Nam Kỳ kỹ nghệ công ty, nhưng các sử liệu liên quan đến Phong trào Minh Tân, kể cả trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đều ghi là Nam kỳ Minh Tân công nghệ, do vậy chúng tôi chỉnh lại cho phù hợp sử liệu.
(7), (8) Nhận xét của Trần Văn Giàu trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, trang 264.
(9) Theo nhà nghiên cứu Lưu Hồng Sơn, Trung tâm Văn học và Ngôn ngữ học, Viện KHXH vùng Nam Bộ, trong “Nguyễn Chánh sắt trên Nông Cổ Mín Đàm”, thì:
+ Nguyễn Chánh Sắt tham gia cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm ngay từ số đầu tiên.
+ Từ 1910 đến năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt là Phó chủ bút.
+ Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút từ 01/01/1917 đến 1922.
+ Trên Nông Cổ Mín Đàm số ra ngày 01/4/1922, đăng Lời Cáo thối của Nguyễn Chánh Sắt. Từ đó, không thấy bút danh Nguyễn Chánh Sắt xuất hiện trên Nông Cổ Mín Đàm.
Tài liệu tham khảo:
1- Địa chí An Giang.
2- Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
3- Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế, Nhân vật lịch sử Việt Nam.
4- Nguyễn Văn Kiềm, Tân Châu (1870-1964).
5- Đinh Hữu Chí, Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Chánh Sắt (1871-1946).