Đề cương tuyên truyền Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và tưởng niệm 198 năm Ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024)
- Được đăng: Chủ nhật, 03 Tháng 11 2024 08:38
- Lượt xem: 1502
(TUAG)- Thực hiện Kế hoạch số 01-KH/TBTT, ngày 01/11/2024 về tuyên truyền Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và Hội thảo khoa học cấp quốc gia “200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và tầm nhìn tương lai”, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp Ủy ban nhân dân thành phố Châu Đốc biên soạn Đề cương tuyên truyền Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và tưởng niệm 198 năm Ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024). Cổng TTĐT Đảng bộ tỉnh đăng toàn văn đề cương.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA SỰ KIỆN ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ
Năm 1802, triều Nguyễn thành lập đã xây dựng một thiết chế quản lý đất nước thống nhất từ Bắc chí Nam. Lúc đầu, vùng đất Nam Bộ được chia thành các trấn trực thuộc phủ Gia Định[1] (thuộc trấn Biên Hòa; Phiên An (sau đổi thành Gia Định); Định Tường; Vĩnh Thanh (gồm Vĩnh Long và An giang); Hà Tiên).
Trên vùng đất Nam Bộ lúc bấy giờ, đường thủy vẫn là tuyến giao thông huyết mạch, căn bản phục vụ mọi hoạt động từ dân sinh đến quốc phòng, quân sự, ngoại giao. Hệ thống thủy lộ là yếu tố tiên quyết tạo nên vị trí địa chiến lược của vùng biên giới Tây Nam với các trung tâm quốc phòng - kinh tế, như: Hà Tiên, Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Thông Bình, Quang Hóa.
Dựa trên những đặc điểm thiên tạo và đặc điểm cư dân, kinh tế - xã hội của Nam Bộ thời bấy giờ, triều Nguyễn đã từng bước nhận thức rõ vai trò quan trọng của các vị trí tiếp giáp với lãnh thổ, lãnh hải Chân Lạp (Campuchia) và Xiêm La (Thái Lan).
Về mặt chiến lược, triều Nguyễn xác định: “Thành Gia Định làm cận biên, Châu Đốc tân cương làm viễn biên, Hà Tiên làm cực biên lam chướng”. Trong đó, Châu Đốc và Hà Tiên được xem như những trung tâm chỉ huy quốc phòng quan trọng nhất cho toàn tuyến biên giới Tây Nam của đất nước.
Vì vậy, khi cất cử Nguyễn Văn Thoại về giữ chức Trấn thủ Vĩnh Thanh vào năm 1817, vua Gia Long đã thận trọng căn dặn: “Trấn Vĩnh Thanh đất giáp nước Chân Lạp, điều cốt yếu trong việc phủ trị là sao cho trong cõi được yên, nước ngoài phải phục”.
Sự quan yếu của vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên đòi hỏi một nguồn lực to lớn để gìn giữ và phát triển. Điều này càng thúc đẩy triều Nguyễn tìm kiếm các biện pháp giải quyết. Những năm cuối triều Gia Long, công cuộc khẩn hoang, lập làng trên vùng đất Nam Bộ tuy đã được xúc tiến một cách mạnh mẽ nhưng dải đất mênh mông thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên vẫn còn bỏ ngỏ.
Vấn đề thoát úng, rửa phèn vùng này trở nên cấp thiết. Đồng thời, nhu cầu kết nối các trung tâm duyên hải Tây Nam từ đạo Long Xuyên (Cà Mau), Rạch Giá, Hà Tiên với các trung tâm thuộc sông Cửu Long, Mỹ Tho, Gia Định về quốc phòng, giao thông và thương hồ cũng rất cấp bách.
Dựa trên ý tưởng quốc phòng của tiền nhân, vua Gia Long còn cho thấy sự đột phá mạnh mẽ khi muốn khơi đào dòng kênh song song với đường biên giới Chân Lạp, kết nối Châu Đốc - Hà Tiên, phục vụ công cuộc giữ nước và tăng cường nguồn lực cho vùng đất “tân cương”.
Năm 1816, triều Nguyễn cũng nhận thấy Châu Đốc là nơi quan trọng ở biên thùy nên muốn đặt đồn lớn trấn giữ. Do đó, vua Gia Long sai Phó tướng Tả quân Nguyễn Văn Xuân, Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường cùng Nguyễn Đức Sĩ trông coi công việc đắp đồn Châu Đốc nhằm bảo vệ Hà Tiên và sách ứng cho Nam Vang (Phnom Penh). Trong quá trình xây dựng đồn, triều Nguyễn hạ lệnh cho Lưu Phước Tường cùng Nguyễn Đức Sĩ đo đạc hình thế đất đai, vẽ địa đồ dâng lên.
Sau khi xem qua bản địa đồ, vua Gia Long bảo các thị thần rằng: “Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn”. Có thể thấy, ý tưởng đào kênh Vĩnh Tế đã khởi phát một cách rõ nét nhất vào thời điểm này.
Sau khi kênh Thoại Hà ra đời, vua Gia Long thấy rằng đã tới lúc thích hợp để tiến hành khơi đào tuyến thủy lộ kết nối Châu Đốc với Hà Tiên. Người được vua Gia Long “chọn mặt gửi vàng” giao phó trọng trách không ai khác, chính là quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Đầu năm 1819, triều Nguyễn xuống dụ cho Mạc Công Du xem xét, đo đạc từ Hà Tiên đến sông Châu Đốc rồi vẽ bản đồ dâng lên.
Tháng 9 Kỷ Mão (1819), vua Gia Long đã ra lệnh Trấn thủ Vĩnh Thanh Nguyễn Văn Thoại làm Đổng lý, đào kênh từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Trước khi ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định và Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại chuẩn bị khởi công, vua Gia Long ra chiếu dụ dân Vĩnh Thanh như sau: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc".
Sau đó vua Gia Long chiếu dụ cho vua Chân Lạp: "Nước ngươi giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này, không những lợi ích cho người Việt, mà còn lợi ích cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp Nhân dân, bảo cho biết ý nhọc nhằn một lần mà nhàn mãi mãi, khiến dân vui vì làm việc, cho chóng thành công. Quan phiên trở xuống ai không tuân lệnh, cho Đồng Phù trị theo quân pháp".
Có thể thấy, từ hơn 200 năm trước, với tầm nhìn chiến lược, triều Nguyễn do vua Gia Long đứng đầu đã mở đường cho phương cách giữ nước, an dân đặc biệt trên vùng Tây Nam biên viễn. Chủ trương này đã tạo nên công trình kỳ vĩ bậc nhất ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XIX - kênh Vĩnh Tế.
II. DIỄN BIẾN, QUÁ TRÌNH HOÀN THÀNH KÊNH VĨNH TẾ
Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài 91 km qua 5 năm thi công (1819 - 1824) với ba đợt:
+ Giai đoạn thi công đầu tiên:
Kênh Châu Đốc - Hà Tiên được khởi đào từ ngày rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819). Phụ việc đào kênh với Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại còn có Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên và Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Ngay đợt đầu, đã có đến 5.000 nhân công được chiêu mộ trong thường dân và binh lính người Việt và 500 người khác đang phục vụ trong quân đội Uy Viễn Đồn, mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền, 1 phương gạo. Riêng Điều bát Nguyễn Văn Tồn đã huy động đến 5.000 người thuộc binh dân người Chân Lạp, mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền với mỗi khẩu phần là vuông gạo[2].
Việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên lần này gặp rất nhiều trở ngại hơn so với việc đào kênh Đông Xuyên - Rạch Giá, việc huy động một lực lượng lớn dân thường và binh lính người Việt và cả người Chân Lạp để phục vụ việc đào kênh trong điều kiện thiếu thốn về mọi mặt, từ vật dụng, công cụ để đào kênh, về lương thực phục vụ nhu cầu ăn, uống và kể cả thuốc men khi những người đào kênh bị ốm đau hay gặp tai nạn trong lúc lao động, kể cả những trường hợp bị thú dữ tấn công, rắn rết cắn, muỗi mồng đầy rẫy, điều kiện khí hậu thất thường nhiều chướng khí, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ đào kênh. Công việc đào kênh khởi đầu trên phần đất cứng với 7.575 tầm (17.398m) do người Việt phụ trách đào; còn một số đường thẳng bề dài 18.704 tầm (47.887,24m), nhưng với đất dễ đào và mềm do người Chân Lạp phụ trách đào. Bề rộng của kênh là 15 tầm (38m), sâu 6 thước (1,536m)[3].
Đợt đầu của công tác đào kênh kéo dài ba tháng từ rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) cho đến rằm tháng 3 năm Canh Thìn. Trong mỗi đợt đào kênh, có những đợt nhỏ được luân phiên nhau giữa những người làm xâu.
Theo ghi nhận, đợt thi công này kênh đào từ Châu Đốc đến đoạn Ca Âm (Tịnh Biên ngày nay) dài khoảng hơn 20 km.
+ Đào kênh giai đoạn 2:
Sau hai năm tạm ngưng, kênh Vĩnh Tế được tiếp tục khởi công giai đoạn 2 từ tháng 2 đến tháng 5 năm Quý Mùi (1823).
Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt được lệnh vua Minh Mạng huy động hơn 39.000 binh dân ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn, cùng hơn 16.000 binh dân nước Chân Lạp, mỗi tháng đều cấp tiền gạo đều như lệ năm Gia Long. Sưu dân thành Gia Định mỗi tháng tiền 6 quan, gạo 1 phương, mỗi 5.000 người đặt 150 người chức dịch, cấp tiền 1.000 quan, gạo 150 phương. Dân Chân Lạp mỗi tháng tiền 4 quan 5 tiền, gạo 1 phương, mỗi 5.000 người đặt 100 người đầu mục ốc nha bồn nha, cấp tiền 1000 quan, gạo 150 phương. Chưa được bao lâu, Lê Văn Duyệt có bệnh, vua sai Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu làm thay.
Dân binh chia làm 3 phiên để hoạt động. Nhưng hết mùa Xuân sang mùa Hè thì công tác đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Trong đợt này, ngoài sự đóng góp to lớn của Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu, còn có Thống chế Nguyễn Văn Tuyên và Thống chế Trần Công Lại phụ giúp cho Thoại Ngọc Hầu.
Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng hơn 60 km, phần còn lại khoảng 1060 trượng (tương đương 3,5km). Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.
+ Đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 3:
Đợt cuối cùng thực hiện vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), số lượng bề dài của con kênh còn lại chỉ 1.700 trượng (4.352m) kể từ cuối rạch Giang Thành trở vào. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và binh dân lên đến 25.000 người, kể cả người Chân Lạp và Việt, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng một tháng 5 năm 1824 hoàn thành.
Kênh Vĩnh Tế đào xong, thành thần Gia Định báo về kinh. Vua Minh Mạng nói rằng: "Đào con sông ấy để trọn công trước, thực là lợi ức muôn năm vô cùng về sau. Bèn sai hữu ty dựng bia để ghi".
Như vậy, bằng trí tuệ, tinh thần lao động bền bỉ, kiên gan nhưng đầy sáng tạo, ông cha ta đã tạo ra một công trình kỳ vĩ trên vùng Tây Nam biên viễn vào đầu thế kỷ XIX. Kênh Vĩnh Tế hoàn thành đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới cho công cuộc khai phá đất đai, lập nên đồn điền, làng xóm trên vùng biên giới. Đồng thời, kênh Vĩnh Tế hiện diện như chiến hào khổng lồ bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia trên tuyến biên giới Tây Nam. Như vua Minh Mạng đã nói: “Thực là quan yếu cho quốc kế biên trù”.
III. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA DANH THẦN THOẠI NGỌC HẦU VÀ BÀ CHÂU THỊ TẾ TRONG VIỆC ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ
1. Đóng góp của danh thần Thoại Ngọc Hầu
Thoại Ngọc Hầu, một danh thần của nhà Nguyễn, công thần trong việc gầy dựng cơ nghiệp của vua Gia Long (Nguyễn Ánh), người có nhiều công lao to lớn đối với đất nước, vùng đất Nam Bộ và đặc biệt là vùng đất An Giang. Tầm nhìn chiến lược và những công trình ông để lại hậu thế không những đã đặt nền móng cho quá trình khẩn điền, mở cõi vùng Nam Bộ trong thế kỷ XIX, mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đến hôm nay và mai sau.
Danh thần Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22, tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng). Thân sinh của ông, cụ ông Nguyễn Văn Lượng và cụ bà Nguyễn Thị Tuyết. Từ nhỏ, ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư tại cù lao Dài (nay thuộc 2 xã Thanh Bình và Quới Thiện của tỉnh Vĩnh Long).
Chánh thất của ông Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Tế, sinh tháng 4 năm Bính Tuất (1766), con cụ ông Châu Vĩnh Huy và cụ bà Đỗ Thị Toán. Vào những năm giữa thế kỷ XVIII, gia đình bà Châu Thị Tế cũng từ miền Trung vào Nam, đến vùng đất cù lao Dài khai khẩn, biến vùng đất này trở thành nơi trù phú.
Đến mùa Xuân năm 1777, chúa Nguyễn Ánh tổ chức mộ binh tại Ba Giồng (Định Tường), Nguyễn Văn Thoại đầu quân cho chúa Nguyễn. Là người thông minh, linh hoạt, lại tinh thông võ nghệ, đã lập được nhiều chiến công, ông được chúa Nguyễn phong làm Khâm sai Thượng đạo tướng quân, rồi đến Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân.
Ông từng giữ chức Quản suất biền binh lưu thủ Bắc Thành, Trấn thủ Lạng Sơn, rồi trở về Nam giữ chức Trấn thủ Định Tường (1808). Đến tháng 9 năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long sắc phong cho Nguyễn Văn Thoại lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên.
Năm 1817, ông được triều đình triệu hồi về nước, cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Sau đó, ông đã bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh các cơ sở hành chánh, xử lý những quan lại tham ô, hạch sách người dân. Mặt khác, ông triển khai thực hiện các chính sách của triều đình để phát triển kinh tế, mở mang các trục giao thông đường thủy, tạo điều kiện cho người Khmer, người Minh Hương, người Chăm, người Việt đến khai khẩn những vùng đất còn hoang vu ven các nhánh sông Tiền, sông Hậu để tạo lập xóm làng, cùng khai khẩn đất hoang.
Lúc bấy giờ, nhận thấy việc đi lại, trao đổi, mua bán ở vùng đất này còn nhiều khó khăn, sông rạch tự nhiên rất quanh co, việc trao đổi hàng hóa với Rạch Giá, Hà Tiên phải đi vòng đường biển. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải khơi nguồn, tháo lũ của sông Hậu ra biển Rạch Giá, ông đã dâng biểu tấu trình hoàng thượng việc đào kênh, mở giao thông thủy đi tắt từ Đông Xuyên đến Rạch Giá.
Tấu sớ của ông được Triều đình chấp thuận. Tháng 11 năm Đinh Sửu (1817), Triều đình lệnh cho ông chuẩn bị đào kênh Tam Khê. Đến mùa Xuân Mậu Dần (1818), ông được vua giáng chỉ đào kênh Tam Khê với mục đích tạo thành giao thông thủy chiến lược quan trọng ở phía Tây sông Hậu nối liền trấn Hà Tiên và Vĩnh Thanh. Đây là bước tiến lớn, lần đầu tiên một con kênh dài được đào bằng sức người tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện cho việc hình thành xóm làng để khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế trên vùng đất An Giang xưa.
Kênh Tam Khê được hoàn thành trong thời gian một tháng, đáp ứng nguyện vọng của người dân, giúp quá trình quy dân tạo ấp lập làng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao lưu trao đổi mua bán giữa các vùng được thuận lợi, đảm bảo an toàn trong khu vực được giao quyền trấn thủ[4]. ông cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên vua Gia Long. Nhận thấy những lợi ích vượt ngoài mong đợi của dòng kênh mới, vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt tên kênh là Thoại Hà, vua đổi tên Núi Sập thành Thoại Sơn để biểu dương công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại.
Từ kết quả của việc đào kênh Thoại Hà, vua Gia Long càng quyết tâm phải đào cho được con kênh thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên.
Đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua truyền chỉ cho Gia Định thành và quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy binh dân đến Châu Đốc để khởi công đào kênh vào ngày rằm tháng Chạp. Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế đi qua nhiều đoạn đất cứng rất khó đào, lại gặp phải thời tiết thất thường, nhiều chướng khí, việc huy động nhân lực gặp nhiều khó khăn, nạn thú dữ… làm cho công việc có lúc phải gián đoạn hoặc chậm chạp. Trong quá trình đào kênh, Nguyễn Văn Thoại luôn tìm cách để khắc phục khó khăn, trở ngại.
Hiểu được khó khăn của ông, bước vào giai đoạn 2, vua Minh Mạng lệnh cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh hơn 45.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng sức người với dụng cụ thô sơ, hàng triệu mét khối đất đá và thay nhau thi công suốt ngày đêm, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được hơn 60 km.
Đợt cuối được tiến hành vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và quân, dân lên đến 25.000 người, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng 1 tháng 5 thì hoàn thành.
Có thể thấy, việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên là một thành quả rất to lớn với số nhân công lên đến trên 80.000 người, thời gian đào kênh suốt 5 năm (từ tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824). Lợi ích lớn nhất của kênh Châu Đốc - Hà Tiên không chỉ ở việc lưu thông bằng ghe thuyền đi lại, trao đổi buôn bán hay đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ cương thổ quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng dẫn nước ngọt từ sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng, xả phèn, rửa mặn cho mùa màng tươi tốt. Song song việc đào kênh Vĩnh Tế, ông Nguyễn Văn Thoại cho lập ven bờ kênh 5 làng: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông. Năm 1826, Nguyễn Văn Thoại đắp lộ đi từ Châu Đốc đến chân núi Vĩnh Tế (ngày nay là đường Nguyễn Văn Thoại và Tân Lộ Kiều Lương), công trình được thực hiện với 3.400 nhân công đến năm 1827 thì hoàn thành. Năm 1828, lộ được bồi bổ thêm với 1.000 nhân công làm từ ngày 18 tháng Giêng đến Rằm tháng Tư thì xong. Cũng trong năm này, ông cho dựng bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương”.
Khi tin vui về đến Triều đình Huế, vua Minh Mạng liền ban sắc khen thưởng và ra sắc cho quan địa phương làm bia dựng ở bờ sông, đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. vua nhận thấy, bên kia bờ kênh mới đào có núi Sam, có phần giống với núi Sập bên bờ kênh Thoại Hà trước kia và xét thấy Thoại Ngọc Hầu phu nhân, là dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, người đàn bà đức độ, luôn tận lực phụ giúp chồng trên đường công bộc, có nhiều đóng góp trong công tác hậu cần, có lúc bà thay chồng đôn đốc việc đào kênh. Từ đó, vua ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là “Vĩnh Tế Hà” và tên núi Sam gần bờ kênh là “Vĩnh Tế Sơn”, làng cạnh núi là “Vĩnh Tế Thôn”.
Khi nói về lợi ích của kênh Vĩnh Tế, sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Từ đây đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng”. Việc hoàn thành kênh Vĩnh Tế được dân chúng xem là một thành quả to lớn, có ảnh hưởng nhiều mặt đối với cư dân trong vùng. Dân mừng vì có đường giao thông thuận lợi từ Châu Đốc đi Hà Tiên. Giới chức biên phòng thời ấy cũng bớt gánh nặng nhờ có đường nước án ngữ ven biên. Kênh Vĩnh Tế xưa và nay cũng thế, không chỉ là một đường lưu thông thủy tiện lợi hay giữ gìn biên giới mà còn có tác dụng khác là đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua rửa phèn cho ruộng đồng.
Danh thần Thoại Ngọc Hầu lâm bệnh, tạ thế tại Châu Đốc ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Lăng mộ ông nằm dưới chân núi Sam với vẻ đẹp uy nghi, cổ kính; mặt hướng nhìn ra đường, lưng tựa vào vách núi, ung dung, đường bệ trên thềm cao với gần chục bậc thang đứng, xây bằng đá ong. Ông được vua Minh Mạng truy phong chức Tráng Võ Tướng quân, Trụ quốc Đô thống, thụy Võ Khác.
Với tài kinh bang tế thế, phò tá 2 vua Gia Long và Minh Mạng, đảm nhận nhiều trọng trách, được phong tước Ngọc Hầu, ông để lại cho đời sau nhiều công trình giá trị, công trạng hiển hách, những văn bia vô giá, lưu danh sử sách. Hiện, An Giang có nhiều ngôi đình thờ ông, trong số đó có hai ngôi đình, lớn nhất là Đình Vĩnh Tế ở phường Núi Sam, TP. Châu Đốc, có sắc phong do vua Khải Định ban ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) và Đình Thoại Sơn tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, có sắc phong của vua Bảo Đại ban ngày 15 tháng 8 âm lịch năm 1943. Các đền miếu thờ ông đều được người đời sau ngưỡng vọng, trùng tu khang trang và tế bái trọng thể.
2. Đóng góp của bà Châu Thị Tế
Bà Châu Thị Tế (1766-1826), là trưởng nữ của ông Châu Vĩnh Huy và bà Đỗ Thị Toán, từ miền Trung đến lập nghiệp định cư tại làng Thới Bình - cù lao Dài (sông Cổ Chiên), nay thuộc địa phận xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Cha bà là thầy giáo dạy học, thuộc tầng lớp khá giả, một gia đình nho học nhân văn có uy tín, được dân làng kính nể.
Theo Nguyễn Văn Hầu, dưới triều Nguyễn, dòng họ này có “mấy người làm quan to” và đời sau còn những người kế nghiệp, như: Châu Vĩnh Kiệt, Châu Vĩnh Hữu, Châu Vĩnh Thái.
Nguyễn Văn Thoại có 2 người vợ. Châu Thị Tế là chánh thất, Trương Thị Miệt là vợ thứ. Bà Châu Thị Tế có với ông Thoại 1 người con tên Nguyễn Văn Lâm, còn bà Miệt sinh cho ông Thoại 1 người con tên Nguyễn Văn Minh.
Sau khi nhà Nguyễn được thành lập vào năm 1802, với vai trò là “khai quốc công thần”, Nguyễn Văn Thoại được triều đình giao cho nhiều chức vụ quan trọng, như: Trấn thủ Lạng Sơn, Trấn thủ Định Tường, Bảo hộ Chân Lạp (Campuchia)... Vì lẽ đó, Châu Thị Tế đã cùng chồng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ bùi” từ Nam ra Bắc và ở tận xứ Chân Lạp xa xôi.
Đến năm 1817, Nguyễn Văn Thoại được bổ nhiệm làm Trấn thủ Vĩnh Thanh đã mở ra một chương mới trong sự nghiệp “kinh bang tế thế” của ông bà. Ở đâu, vợ chồng ông bà cũng để lại nhiều ân đức. Sau khi lập ra 5 thôn trên xứ Cù lao Dài, bà lại cùng chồng bén duyên với xứ sở miền Tây sông Hậu và biên viễn Tây Nam. Tại đây, năm 1818, Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại được vua Gia Long giao nhiệm vụ đào, vét con kênh nối từ Đông Xuyên thông ra Rạch Giá. Chỉ sau 1 tháng, kênh đã hoàn thành. Vua Gia Long khen ngợi, lấy tên ông đặt tên cho kênh mới đào là Thoại Hà và đổi tên núi Sập thành Thoại Sơn như một sự tán dương công trạng.
Việc hoàn thành kênh Thoại Hà trong vòng 1 tháng thật sự là kỳ công lưu danh thiên cổ của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Dân gian có câu: “Đằng sau người đàn ông thành công luôn có bóng dáng người phụ nữ”, với ông Thoại lại càng phù hợp. Châu Thị Tế không chỉ là người “nâng khăn sửa túi”, mà còn biết san sẻ gánh nặng quốc gia trọng sự cùng chồng. Với vai trò là người hỗ trợ phía sau, bà Châu Thị Tế đã không quản ngại khó khăn, gian khổ đảm nhận công việc hậu cần, lo cơm nước, thuốc thang, thăm hỏi, đôn đốc dân phu, lính tráng đào kênh một cách tận tâm.
Chính những kinh nghiệm hậu cần quý báu trong việc đào kênh Thoại Hà là tiền đề quan trọng để bà tiếp tục giúp chồng trong 1 công trình còn to lớn và dài hơi hơn là đào con kênh nối Châu Đốc với Hà Tiên suốt từ năm 1819 đến 1824.
Không chỉ giỏi trong việc hậu cần đào kênh, bà Châu Thị Tế còn đóng góp quan trọng vào công cuộc khai hoang lập làng, phát triển vùng biên viễn. Ngoài việc giúp chồng lập ra 5 thôn trên đất Cù lao Dài, bà Vĩnh Tế còn góp phần không nhỏ vào sự ra đời của Vĩnh tế sơn và Vĩnh Tế thôn. Đây là những thôn rất quan trọng trong việc phát triển vùng đất Thoại Sơn và Châu Đốc trong buổi đầu khai hoang mở đất trên vùng Tứ giác Long Xuyên.
Dưới triều Nguyễn, Nho giáo được xem là mực thước trị quốc, nền tảng của lễ nghi. Vai trò của người phụ nữ chưa được coi trọng. Song, đối với trường hợp của bà Châu Thị Tế là một ngoại lệ. Xuất phát từ sự đóng góp vô cùng to lớn của bà đối với sự nghiệp khai hoang, đào kênh, phát triển vùng đất “tân cương” cùng chồng Nguyễn Văn Thoại đã tạo được “đức dày trong đường lễ giáo”, tạo nên ấn tượng tốt đẹp và sự cảm khái từ triều đình Huế. Do đó, vua Nguyễn đã lấy tên bà đặt cho con kênh nối Châu Đốc với Hà Tiên dài 97km là kênh Vĩnh Tế. Tiếp đó, vua Nguyễn còn đổi tên núi Sam thành Vĩnh Tế Sơn và đặt tên cho ngôi làng mới lập với công lớn của ông bà ở dưới chân núi Sam là Vĩnh Tế Sơn thôn.
Năm Bính Tuất (1826), bà Châu Thị Tế đã trút hơi thở sau cùng tại Châu Đốc. Nhằm ghi nhận công lao của người phụ nữ tài đức vẹn toàn, vua Minh Mạng đã ra dụ phong cho bà là “Nhàn Tĩnh phu nhân”.
Vĩnh Tế - tên người đã lưu vào sử sách và tâm tưởng của bao thế hệ cư dân vùng Tây Nam biên viễn. Bà là tấm gương mẫu mực của người phụ nữ Nam Bộ giàu đức hạnh, tận hiến vì sự phát triển của quê hương, xứng đáng cho thế hệ hôm nay và mai sau noi theo. Với những đóng góp to lớn cho sự phát triển của vùng đất Châu Đốc - núi Sam từ thuở khai hoang, bà Châu Thị Tế đã trở thành nhân vật lịch sử đặc biệt của nơi này, bên cạnh tên tuổi danh thần Thoại Ngọc Hầu. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử được vua cho lấy tên đặt cho tên sông, tên núi, tên làng. Tên tuổi của bà đã gắn chặt với đời sống tinh thần của người dân An Giang nói riêng, Nam Bộ nói chung.
Những công lao của vợ chồng Nguyễn Văn Thoại và Châu Thị Tế đã biến đất Châu Đốc tân cương xưa và An Giang nay là nơi duy nhất trong cả nước có kênh chồng - kênh vợ (Thoại Hà - Vĩnh Tế), núi chồng - núi vợ (Thoại Sơn - Vĩnh Tế Sơn), thôn chồng - thôn vợ (Thoại Sơn thôn - Vĩnh Tế thôn).
Ngày nay, trên những vùng đất mà vợ chồng ông bà đã lưu dấu, Nhân dân luôn tạc dạ ghi ơn, dựng tượng, lập đình thờ để tưởng nhớ. Tên ông bà còn được đặt cho nhiều trường THPT lớn trong tỉnh An Giang và Kiên Giang, như: Trường THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu (TP. Long Xuyên), Trường THPT Nguyễn Văn Thoại (huyện Thoại Sơn), Trường THPT Châu Thị Tế (TP. Châu Đốc), Trường Mầm non Vĩnh Tế toạ lạc tại xã Vĩnh Tế và Trường THPT Thoại Ngọc Hầu (huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang).
IV. VAI TRÒ, GIÁ TRỊ TO LỚN CỦA KÊNH VĨNH TẾ TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐỊA PHƯƠNG, ĐẤT NƯỚC
1. Sứ mệnh trấn biên, khẳng định chủ quyền
Sự ra đời của kênh Vĩnh Tế (năm 1824) là bước đi rất quan trọng trong chiến lược phòng thủ biên giới Tây Nam của triều Nguyễn. Những giá trị con kênh này mang lại càng khẳng định chủ trương phát triển giao thông trên vùng biên giới của triều Nguyễn, là bước đi đúng đắn nhằm giải quyết 2 nhiệm vụ bức thiết là phát triển vùng đất mới và thiết lập thế trận phòng thủ biên cương, khẳng định chủ quyền đất nước. Đại Nam nhất thống chí chép: “Từ đấy đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng”.
Với chính sách quốc phòng dựa vào tiềm lực nội tại, triều Nguyễn đã nỗ lực thiết lập thế trận phòng thủ biên giới trên cơ sở phát huy sự quan yếu của các tuyến đường thủy trọng yếu. Trong đó, kênh Vĩnh Tế được xem “mũi kim” khai thông “nguyệt đạo” làm cho mạch máu giao thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên được vận hành trơn tru để kết nối vùng biên giới Tây Nam thành một dải.
Do tầm quan trọng của tuyến biên giới trên bộ với Chân Lạp (Campuchia), triều Nguyễn đã triệt để tận dụng các tuyến sông làm hàng rào biên giới. Trong thế trận phòng thủ ấy, kênh Vĩnh Tế là mảnh ghép quan trọng cuối cùng trong chiến lược tận dụng “hàng rào nước” dọc tuyến biên giới để thiết lập hệ thống phòng thủ và khẳng định chủ quyền quốc gia.
“Hàng rào nước” bắt đầu từ phía Tây của đầu nguồn sông Hậu (sông Bassac) chạy dọc theo tuyến biên giới Tây Nam, kéo dài liên tục đến tận cửa biển Hà Tiên. Tuyến thủy lộ này có độ dài khoảng 140km với 4 đoạn đường nước, gồm: Sông Bình Ghi (10km), sông Phú Hội hay sông Takeo hoặc sông Ankor Borei (15km), sông Châu Đốc (18km) và kênh Vĩnh Tế (97km). Trong đó, kênh Vĩnh Tế được xem là thủy lộ quan trọng nhất để kết nối 2 trung tâm quốc phòng Châu Đốc - Hà Tiên và đóng vai trò như một phòng tuyến quân sự có khả năng phòng ngự linh hoạt trong hoàn cảnh xảy ra chiến tranh với Chân Lạp và Xiêm La (Thái Lan). Tận dụng sự cơ động của sông nước biên giới, triều Nguyễn đã từng bước xây dựng hàng loạt các cơ sở quân sự, quốc phòng từ đầu nguồn sông Hậu cho đến Hà Tiên để giữ nước. Riêng đối với kênh Vĩnh Tế, với vai trò trọng yếu trong chiến lược trù biên, triều Nguyễn đã thiết lập nhiều cơ sở quân sự, quốc phòng kéo dài từ Châu Đốc đến cửa biển Hà Tiên.
Sự thiết lập số lượng lớn các cơ sở quân sự, quốc phòng dọc tuyến kênh Vĩnh Tế cho thấy quyết tâm phòng thủ đất nước dựa vào tuyến kênh này của triều Nguyễn. Kênh Vĩnh Tế là hệ thống phòng thủ đường thủy ở phía trước, linh hoạt trong tác chiến được hỗ trợ từ hệ thống phòng thủ bộ binh của Thất Sơn ở phía sau. Đồng thời, nó cũng kết hợp với 2 hệ thống phòng thủ trên sông Hậu và sông Tiền để tạo ra thế tấn công địch liên tục. Tướng nhà Nguyễn Lê Văn Đức từng cho ý kiến rằng: “Sông Vĩnh Tế là đường sau của Hà Tiên, thông vào tận ruột tỉnh An Giang, việc phòng bị rất là quan trọng”.
Quan trọng hơn cả, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như 1 công trình đánh dấu, xác lập chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ. Từ trong lịch sử, vấn đề chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ vốn rất nhạy cảm và dễ gây những bất đồng, xung đột giữa người Việt và người Chân Lạp.
Trong thế kỷ XVII và XVIII, vùng đất Nam Bộ được đẩy mạnh khai phá và dần mở rộng, nhất là theo các tuyến sông, kênh rạch. Theo đó, hệ thống chính quyền chúa Nguyễn cũng lần lượt ra đời, các đồn lũy bảo vệ đất đai, dân cư được dựng lên; hệ thống kênh rạch được nạo vét, đào mới phục vụ cho việc trị an, quốc phòng; chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng được đẩy mạnh... Đây là những đảm bảo chắc chắn để lưu dân người Việt ngày càng vững tâm tiến vào khai phá lập nghiệp trên vùng đất Nam Bộ xưa.
Suốt 200 năm qua, kênh Vĩnh Tế vẫn vươn mình hiên ngang trấn thủ biên cương, nuôi dưỡng biết bao đời cư dân vùng biên viễn và khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia, dân tộc Việt Nam. Dòng Vĩnh Tế mãi là món quà vô giá mà ông cha đã để lại cho các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau tiếp tục gìn giữ, phát huy vai trò to lớn của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên vùng biên viễn Tây Nam. Như vua Minh Mạng đã nói: “Thực là quan yếu cho quốc kế biên trù” lợi ức muôn năm vô cùng về sau.
2. Vai trò, giá trị to lớn của kênh Vĩnh Tế trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Kênh Vĩnh Tế được đào song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thuộc phường Vĩnh Nguơn (thành phố Châu Đốc, An Giang) thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, đã tạo ra một hệ thống thủy lợi thượng nguồn quan trọng cho vùng Tứ giác Long Xuyên, góp phần khai phá, cải tạo và phát triển vùng đất này. Đến hiện tại, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thuỷ, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của Nhân dân Việt.
Kênh Vĩnh Tế được xem là “kênh mẹ” để hình thành các kênh T5, T4, T3, các kênh này có đầu nguồn bắt đầu từ kênh Vĩnh Tế, tạo thành một mạng lưới thủy lợi dày đặc đưa nước ngọt từ sông Hậu vào sâu trong vùng Tứ giác Long Xuyên, hệ thống này giúp phân phối nước một cách đồng đều, cải thiện hệ thống thoát nước (thoát lũ), cung cấp nước tưới tiêu ổn định, giúp rửa phèn, dẫn phù sa cải tạo đất, tăng cường độ phì nhiêu cho đất, cải thiện điều kiện canh tác làm cho cây lúa sinh trưởng tốt và cho năng suất cao, sản xuất từ 1 vụ sang 2 vụ ăn chắc và đang tiến lên 3 vụ. Việc đầu tư bài bản, đồng bộ với các công trình thủy lợi lớn trong suốt thời gian dài, đã biến Tứ giác Long Xuyên từ hoang hóa, nhiễm phèn nặng thành vùng sản xuất trù phú, trọng điểm sản xuất lương thực của Đồng bằng sông Cửu Long và vươn mình là vùng trọng điểm sản xuất lúa của cả nước.
Song song đó với sự cộng hưởng các giá trị đưa dòng kênh Vĩnh Tế trở thành hành trình du lịch mang tính chất cảnh quan sinh thái, lịch sử - văn hóa, trên bộ - dưới thuyền làm đa dạng hóa các loại hình du lịch địa phương phục vụ du kháchtrong giai đoạn mới. Tập trung khai thác các hoạt động du lịch trên kênh Vĩnh Tế có thể bao gồm tham quan bằng thuyền, khám phá cảnh quan thiên nhiên và cuộc sống ven sông, tìm hiểu văn hóa, lịch sử vùng đất và con người, trải nghiệm đời sống thương hồ và đặc trưng mùa nước nổi. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng như xây dựng bến tàu, cầu, đường để phục vụ du lịch. Tổ chức các sự kiện và hoạt động du lịch như hội chợ, triển lãm và các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với kênh Vĩnh Tế để thu hút khách du lịch. Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản dọc kênh Vĩnh Tế tạo điểm đến hấp dẫn du khách.
Qua 200 năm lịch sử cho đến nay, kênh Vĩnh Tế được ghi nhận là kênh đào thủ công quý giá của vùng biên giới Tây Nam Tổ quốc, khẳng định chủ quyền bờ cõi và làm nên vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long trù phú. Kênh Vĩnh Tế còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, việc xây dựng kênh Vĩnh Tế là một quá trình đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực và đồng lòng của hàng ngàn người dân, đây chính là nét đẹp văn hóa của con dân nước Việt. Bên cạnh đó, với những khó khăn, vất vả do điều kiện thiên nhiên và vật chất gắn liền với những câu chuyện, truyền thuyết dân gian khi đào kênh tạo nên một kho tàng văn hóa phong phú. Đồng thời, đây được xem là một minh chứng hữu hiệu cho việc giáo dục giúp thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, hiểu rõ hơn về lịch sử, truyền thống của cha ông ta để lại.
V. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÀO MỪNG LỄ KỶ NIỆM 200 NĂM HOÀN THÀNH KÊNH VĨNH TẾ VÀ TƯỞNG NIỆM 198 NĂM NGÀY MẤT BÀ CHÂU THỊ TẾ.
Việc tổ chức kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) nhằm để khẳng định giá trị kênh Vĩnh Tế, một công trình thủy lợi lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kênh tế, xã hội, quốc phòng an ninh của vùng đất An Giang và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân đối với địa phương, tôn vinh công đức người xưa để thế hệ trẻ học tập noi theo. Tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu rộng rãi đến người dân, du khách giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc về vùng đất, con người và những tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Các hoạt động kỷ niệm bao gồm:
- Các nghi thức truyền thống tưởng niệm 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024): Gồm 2 nghi thức được tổ chức tại di tích cấp quốc gia Lăng Thoại Ngọc Hầu, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc do Ban Quản trị Lăng Miếu núi Sam chịu trách nhiệm thực hiện:
+ Lễ cúng Tiên thường vào lúc 16 giờ 00 phút, thứ Năm, ngày 14/11/2024 (nhằm ngày 14/10 Âl).
+ Lễ cúng Chánh tế vào lúc 04 giờ 00 phút, thứ Sáu, ngày 15/11/2024 (nhằm ngày 15/10 Âl).
- Hội thảo khoa học cấp quốc gia “200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và tầm nhìn tương lai” tổ chức vào lúc 7 giờ 30, thứ Năm, ngày 14/11/2024 và trực tiếp trên nền tảng số của Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang tại Hội trường Thành ủy Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) tổ chức vào lúc 20 giờ 00, thứ Năm, ngày 14/11/2024; truyền hình trực tiếp trên Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang và nền tảng số tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Thực hiện chăm lo, thăm hỏi gia đình chính sách, gia đình có công và an sinh xã hội trên địa bàn thành phố nhân kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024).
- Cuộc thi ảnh nghệ thuật chủ đề “Ảnh đẹp – Kênh Vĩnh Tế” dự kiến từ ngày 15/10/2024 đến ngày 14/11/2024.
- Các hoạt động thể thao: Giải bóng chuyền hơi; Pickleball từ ngày 9/11/2024 đến ngày 10/11/2024 tại Nhà thi đấu đa năng thành phố Châu Đốc.
- Tổ chức Không gian trưng bày, triển lãm chuyên đề về “200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và thành tựu” tại Hội trường Thành ủy Châu Đốc và Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Thực hiện xe hoa tuyên truyền lưu động về giá trị lịch sử kênh Vĩnh Tế, nhân vật lịch sử Châu Thị Tế (1766 - 1826) từ ngày 12/11 đến hết ngày 14/11/2024.
- Tổ chức không gian ẩm thực; trưng bày sản phẩm OCOP, hàng hóa đặc trưng; trò chơi dân gian, trò chơi vận động; trình diễn thư pháp từ ngày 12/11/2024 đến hết ngày 14/11/2024 tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Tổ chức Giải Việt dã vô địch tỉnh An Giang từ ngày 12/11/2024 đến ngày 13/11/2024 tại đường Tân Lộ Kiều Lương, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang (phía trước Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh thành phố Châu Đốc).
- Hội diễn Lân sư rồng dự kiến vào lúc 15 giờ 00, ngày 13/11/2024 tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Tổ chức chương trình văn nghệ phục vụ sự kiện kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và tưởng niệm 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024) dự kiến vào lúc 19 giờ 30, ngày 13/11/2024 tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
VI. MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1. Nhiệt liệt chào mừng Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024)!
2. Kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024)!
3. Giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử kênh Vĩnh Tế cho tương lai!
4. Phát huy giá trị 200 năm di sản kênh Vĩnh Tế cho tương lai!
5. Di sản văn hóa kênh Vĩnh Tế 200 năm - Niềm tự hào của dân tộc!
____________
[1] Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr 43.
[2] Gia Định thành thông chí, sđd, tr249.
[3] Đại Nam nhất thống chí, phần An Giang tỉnh, mục Sơn Xuyên.
[4] Việc này được nêu rõ trong Bia Thoại Sơn: “Ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kinh dài 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành một con sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi”.
* Tài liệu tham khảo:
1. Kế hoạch số 977/KH-UBND, ngày 10/10/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824-2024), tưởng niệm 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế (1826-2024).
2. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “An Giang 190 năm hình thành và phát triển (1832-2022).
3. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lịch sử 265 năm từ Châu Đốc Đạo đến thành phố Châu Đốc (1757-2022).
4. Tài liệu Hội thảo Khoa học Nhân vật lịch sử Châu Thị Tế (1766 -1826).
5. Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
6. Danh thần Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại với quê hương và miền Tây Nam Bộ của tác giả Lê Duy Anh.
7. Bài viết “Công lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An Giang” của tác giả Hoàng Kỳ (TS Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang), đăng trên Cổng Thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang, ngày 11/7/2024.
8. Bài viết “200 năm kênh Vĩnh Tế - Tầm nhìn chiến lược của tiền nhân” của tác giả TS DƯƠNG THẾ HIỀN (Trường Đại học An Giang), đăng trên Báo An Giang điện tử ngày 23/8/2024.
9. Bài viết “200 năm kênh Vĩnh Tế: Vĩnh Tế - Tên người lưu danh sông núi” của tác giả TS DƯƠNG THẾ HIỀN (Trường Đại học An Giang), đăng trên Báo An Giang điện tử ngày 13/9/2024.
10. Bài viết “200 năm kênh Vĩnh Tế: Sứ mệnh trấn biên, khẳng định chủ quyền” của tác giả TS DƯƠNG THẾ HIỀN (Trường Đại học An Giang), đăng trên Báo An Giang điện tử ngày 27/9/2024.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA SỰ KIỆN ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ
Năm 1802, triều Nguyễn thành lập đã xây dựng một thiết chế quản lý đất nước thống nhất từ Bắc chí Nam. Lúc đầu, vùng đất Nam Bộ được chia thành các trấn trực thuộc phủ Gia Định[1] (thuộc trấn Biên Hòa; Phiên An (sau đổi thành Gia Định); Định Tường; Vĩnh Thanh (gồm Vĩnh Long và An giang); Hà Tiên).
Trên vùng đất Nam Bộ lúc bấy giờ, đường thủy vẫn là tuyến giao thông huyết mạch, căn bản phục vụ mọi hoạt động từ dân sinh đến quốc phòng, quân sự, ngoại giao. Hệ thống thủy lộ là yếu tố tiên quyết tạo nên vị trí địa chiến lược của vùng biên giới Tây Nam với các trung tâm quốc phòng - kinh tế, như: Hà Tiên, Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Thông Bình, Quang Hóa.
Dựa trên những đặc điểm thiên tạo và đặc điểm cư dân, kinh tế - xã hội của Nam Bộ thời bấy giờ, triều Nguyễn đã từng bước nhận thức rõ vai trò quan trọng của các vị trí tiếp giáp với lãnh thổ, lãnh hải Chân Lạp (Campuchia) và Xiêm La (Thái Lan).
Về mặt chiến lược, triều Nguyễn xác định: “Thành Gia Định làm cận biên, Châu Đốc tân cương làm viễn biên, Hà Tiên làm cực biên lam chướng”. Trong đó, Châu Đốc và Hà Tiên được xem như những trung tâm chỉ huy quốc phòng quan trọng nhất cho toàn tuyến biên giới Tây Nam của đất nước.
Vì vậy, khi cất cử Nguyễn Văn Thoại về giữ chức Trấn thủ Vĩnh Thanh vào năm 1817, vua Gia Long đã thận trọng căn dặn: “Trấn Vĩnh Thanh đất giáp nước Chân Lạp, điều cốt yếu trong việc phủ trị là sao cho trong cõi được yên, nước ngoài phải phục”.
Sự quan yếu của vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên đòi hỏi một nguồn lực to lớn để gìn giữ và phát triển. Điều này càng thúc đẩy triều Nguyễn tìm kiếm các biện pháp giải quyết. Những năm cuối triều Gia Long, công cuộc khẩn hoang, lập làng trên vùng đất Nam Bộ tuy đã được xúc tiến một cách mạnh mẽ nhưng dải đất mênh mông thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên vẫn còn bỏ ngỏ.
Vấn đề thoát úng, rửa phèn vùng này trở nên cấp thiết. Đồng thời, nhu cầu kết nối các trung tâm duyên hải Tây Nam từ đạo Long Xuyên (Cà Mau), Rạch Giá, Hà Tiên với các trung tâm thuộc sông Cửu Long, Mỹ Tho, Gia Định về quốc phòng, giao thông và thương hồ cũng rất cấp bách.
Dựa trên ý tưởng quốc phòng của tiền nhân, vua Gia Long còn cho thấy sự đột phá mạnh mẽ khi muốn khơi đào dòng kênh song song với đường biên giới Chân Lạp, kết nối Châu Đốc - Hà Tiên, phục vụ công cuộc giữ nước và tăng cường nguồn lực cho vùng đất “tân cương”.
Năm 1816, triều Nguyễn cũng nhận thấy Châu Đốc là nơi quan trọng ở biên thùy nên muốn đặt đồn lớn trấn giữ. Do đó, vua Gia Long sai Phó tướng Tả quân Nguyễn Văn Xuân, Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường cùng Nguyễn Đức Sĩ trông coi công việc đắp đồn Châu Đốc nhằm bảo vệ Hà Tiên và sách ứng cho Nam Vang (Phnom Penh). Trong quá trình xây dựng đồn, triều Nguyễn hạ lệnh cho Lưu Phước Tường cùng Nguyễn Đức Sĩ đo đạc hình thế đất đai, vẽ địa đồ dâng lên.
Sau khi xem qua bản địa đồ, vua Gia Long bảo các thị thần rằng: “Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn”. Có thể thấy, ý tưởng đào kênh Vĩnh Tế đã khởi phát một cách rõ nét nhất vào thời điểm này.
Sau khi kênh Thoại Hà ra đời, vua Gia Long thấy rằng đã tới lúc thích hợp để tiến hành khơi đào tuyến thủy lộ kết nối Châu Đốc với Hà Tiên. Người được vua Gia Long “chọn mặt gửi vàng” giao phó trọng trách không ai khác, chính là quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Đầu năm 1819, triều Nguyễn xuống dụ cho Mạc Công Du xem xét, đo đạc từ Hà Tiên đến sông Châu Đốc rồi vẽ bản đồ dâng lên.
Tháng 9 Kỷ Mão (1819), vua Gia Long đã ra lệnh Trấn thủ Vĩnh Thanh Nguyễn Văn Thoại làm Đổng lý, đào kênh từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Trước khi ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định và Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại chuẩn bị khởi công, vua Gia Long ra chiếu dụ dân Vĩnh Thanh như sau: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc".
Sau đó vua Gia Long chiếu dụ cho vua Chân Lạp: "Nước ngươi giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này, không những lợi ích cho người Việt, mà còn lợi ích cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp Nhân dân, bảo cho biết ý nhọc nhằn một lần mà nhàn mãi mãi, khiến dân vui vì làm việc, cho chóng thành công. Quan phiên trở xuống ai không tuân lệnh, cho Đồng Phù trị theo quân pháp".
Có thể thấy, từ hơn 200 năm trước, với tầm nhìn chiến lược, triều Nguyễn do vua Gia Long đứng đầu đã mở đường cho phương cách giữ nước, an dân đặc biệt trên vùng Tây Nam biên viễn. Chủ trương này đã tạo nên công trình kỳ vĩ bậc nhất ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XIX - kênh Vĩnh Tế.
II. DIỄN BIẾN, QUÁ TRÌNH HOÀN THÀNH KÊNH VĨNH TẾ
Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài 91 km qua 5 năm thi công (1819 - 1824) với ba đợt:
+ Giai đoạn thi công đầu tiên:
Kênh Châu Đốc - Hà Tiên được khởi đào từ ngày rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819). Phụ việc đào kênh với Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại còn có Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên và Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Ngay đợt đầu, đã có đến 5.000 nhân công được chiêu mộ trong thường dân và binh lính người Việt và 500 người khác đang phục vụ trong quân đội Uy Viễn Đồn, mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền, 1 phương gạo. Riêng Điều bát Nguyễn Văn Tồn đã huy động đến 5.000 người thuộc binh dân người Chân Lạp, mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền với mỗi khẩu phần là vuông gạo[2].
Việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên lần này gặp rất nhiều trở ngại hơn so với việc đào kênh Đông Xuyên - Rạch Giá, việc huy động một lực lượng lớn dân thường và binh lính người Việt và cả người Chân Lạp để phục vụ việc đào kênh trong điều kiện thiếu thốn về mọi mặt, từ vật dụng, công cụ để đào kênh, về lương thực phục vụ nhu cầu ăn, uống và kể cả thuốc men khi những người đào kênh bị ốm đau hay gặp tai nạn trong lúc lao động, kể cả những trường hợp bị thú dữ tấn công, rắn rết cắn, muỗi mồng đầy rẫy, điều kiện khí hậu thất thường nhiều chướng khí, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ đào kênh. Công việc đào kênh khởi đầu trên phần đất cứng với 7.575 tầm (17.398m) do người Việt phụ trách đào; còn một số đường thẳng bề dài 18.704 tầm (47.887,24m), nhưng với đất dễ đào và mềm do người Chân Lạp phụ trách đào. Bề rộng của kênh là 15 tầm (38m), sâu 6 thước (1,536m)[3].
Đợt đầu của công tác đào kênh kéo dài ba tháng từ rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) cho đến rằm tháng 3 năm Canh Thìn. Trong mỗi đợt đào kênh, có những đợt nhỏ được luân phiên nhau giữa những người làm xâu.
Theo ghi nhận, đợt thi công này kênh đào từ Châu Đốc đến đoạn Ca Âm (Tịnh Biên ngày nay) dài khoảng hơn 20 km.
+ Đào kênh giai đoạn 2:
Sau hai năm tạm ngưng, kênh Vĩnh Tế được tiếp tục khởi công giai đoạn 2 từ tháng 2 đến tháng 5 năm Quý Mùi (1823).
Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt được lệnh vua Minh Mạng huy động hơn 39.000 binh dân ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn, cùng hơn 16.000 binh dân nước Chân Lạp, mỗi tháng đều cấp tiền gạo đều như lệ năm Gia Long. Sưu dân thành Gia Định mỗi tháng tiền 6 quan, gạo 1 phương, mỗi 5.000 người đặt 150 người chức dịch, cấp tiền 1.000 quan, gạo 150 phương. Dân Chân Lạp mỗi tháng tiền 4 quan 5 tiền, gạo 1 phương, mỗi 5.000 người đặt 100 người đầu mục ốc nha bồn nha, cấp tiền 1000 quan, gạo 150 phương. Chưa được bao lâu, Lê Văn Duyệt có bệnh, vua sai Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu làm thay.
Dân binh chia làm 3 phiên để hoạt động. Nhưng hết mùa Xuân sang mùa Hè thì công tác đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Trong đợt này, ngoài sự đóng góp to lớn của Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu, còn có Thống chế Nguyễn Văn Tuyên và Thống chế Trần Công Lại phụ giúp cho Thoại Ngọc Hầu.
Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng hơn 60 km, phần còn lại khoảng 1060 trượng (tương đương 3,5km). Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.
+ Đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 3:
Đợt cuối cùng thực hiện vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), số lượng bề dài của con kênh còn lại chỉ 1.700 trượng (4.352m) kể từ cuối rạch Giang Thành trở vào. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và binh dân lên đến 25.000 người, kể cả người Chân Lạp và Việt, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng một tháng 5 năm 1824 hoàn thành.
Kênh Vĩnh Tế đào xong, thành thần Gia Định báo về kinh. Vua Minh Mạng nói rằng: "Đào con sông ấy để trọn công trước, thực là lợi ức muôn năm vô cùng về sau. Bèn sai hữu ty dựng bia để ghi".
Như vậy, bằng trí tuệ, tinh thần lao động bền bỉ, kiên gan nhưng đầy sáng tạo, ông cha ta đã tạo ra một công trình kỳ vĩ trên vùng Tây Nam biên viễn vào đầu thế kỷ XIX. Kênh Vĩnh Tế hoàn thành đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới cho công cuộc khai phá đất đai, lập nên đồn điền, làng xóm trên vùng biên giới. Đồng thời, kênh Vĩnh Tế hiện diện như chiến hào khổng lồ bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia trên tuyến biên giới Tây Nam. Như vua Minh Mạng đã nói: “Thực là quan yếu cho quốc kế biên trù”.
III. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA DANH THẦN THOẠI NGỌC HẦU VÀ BÀ CHÂU THỊ TẾ TRONG VIỆC ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ
1. Đóng góp của danh thần Thoại Ngọc Hầu
Thoại Ngọc Hầu, một danh thần của nhà Nguyễn, công thần trong việc gầy dựng cơ nghiệp của vua Gia Long (Nguyễn Ánh), người có nhiều công lao to lớn đối với đất nước, vùng đất Nam Bộ và đặc biệt là vùng đất An Giang. Tầm nhìn chiến lược và những công trình ông để lại hậu thế không những đã đặt nền móng cho quá trình khẩn điền, mở cõi vùng Nam Bộ trong thế kỷ XIX, mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đến hôm nay và mai sau.
Danh thần Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22, tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng). Thân sinh của ông, cụ ông Nguyễn Văn Lượng và cụ bà Nguyễn Thị Tuyết. Từ nhỏ, ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư tại cù lao Dài (nay thuộc 2 xã Thanh Bình và Quới Thiện của tỉnh Vĩnh Long).
Chánh thất của ông Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Tế, sinh tháng 4 năm Bính Tuất (1766), con cụ ông Châu Vĩnh Huy và cụ bà Đỗ Thị Toán. Vào những năm giữa thế kỷ XVIII, gia đình bà Châu Thị Tế cũng từ miền Trung vào Nam, đến vùng đất cù lao Dài khai khẩn, biến vùng đất này trở thành nơi trù phú.
Đến mùa Xuân năm 1777, chúa Nguyễn Ánh tổ chức mộ binh tại Ba Giồng (Định Tường), Nguyễn Văn Thoại đầu quân cho chúa Nguyễn. Là người thông minh, linh hoạt, lại tinh thông võ nghệ, đã lập được nhiều chiến công, ông được chúa Nguyễn phong làm Khâm sai Thượng đạo tướng quân, rồi đến Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân.
Ông từng giữ chức Quản suất biền binh lưu thủ Bắc Thành, Trấn thủ Lạng Sơn, rồi trở về Nam giữ chức Trấn thủ Định Tường (1808). Đến tháng 9 năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long sắc phong cho Nguyễn Văn Thoại lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên.
Năm 1817, ông được triều đình triệu hồi về nước, cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Sau đó, ông đã bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh các cơ sở hành chánh, xử lý những quan lại tham ô, hạch sách người dân. Mặt khác, ông triển khai thực hiện các chính sách của triều đình để phát triển kinh tế, mở mang các trục giao thông đường thủy, tạo điều kiện cho người Khmer, người Minh Hương, người Chăm, người Việt đến khai khẩn những vùng đất còn hoang vu ven các nhánh sông Tiền, sông Hậu để tạo lập xóm làng, cùng khai khẩn đất hoang.
Lúc bấy giờ, nhận thấy việc đi lại, trao đổi, mua bán ở vùng đất này còn nhiều khó khăn, sông rạch tự nhiên rất quanh co, việc trao đổi hàng hóa với Rạch Giá, Hà Tiên phải đi vòng đường biển. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải khơi nguồn, tháo lũ của sông Hậu ra biển Rạch Giá, ông đã dâng biểu tấu trình hoàng thượng việc đào kênh, mở giao thông thủy đi tắt từ Đông Xuyên đến Rạch Giá.
Tấu sớ của ông được Triều đình chấp thuận. Tháng 11 năm Đinh Sửu (1817), Triều đình lệnh cho ông chuẩn bị đào kênh Tam Khê. Đến mùa Xuân Mậu Dần (1818), ông được vua giáng chỉ đào kênh Tam Khê với mục đích tạo thành giao thông thủy chiến lược quan trọng ở phía Tây sông Hậu nối liền trấn Hà Tiên và Vĩnh Thanh. Đây là bước tiến lớn, lần đầu tiên một con kênh dài được đào bằng sức người tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện cho việc hình thành xóm làng để khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế trên vùng đất An Giang xưa.
Kênh Tam Khê được hoàn thành trong thời gian một tháng, đáp ứng nguyện vọng của người dân, giúp quá trình quy dân tạo ấp lập làng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao lưu trao đổi mua bán giữa các vùng được thuận lợi, đảm bảo an toàn trong khu vực được giao quyền trấn thủ[4]. ông cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên vua Gia Long. Nhận thấy những lợi ích vượt ngoài mong đợi của dòng kênh mới, vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt tên kênh là Thoại Hà, vua đổi tên Núi Sập thành Thoại Sơn để biểu dương công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại.
Từ kết quả của việc đào kênh Thoại Hà, vua Gia Long càng quyết tâm phải đào cho được con kênh thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên.
Đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua truyền chỉ cho Gia Định thành và quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy binh dân đến Châu Đốc để khởi công đào kênh vào ngày rằm tháng Chạp. Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế đi qua nhiều đoạn đất cứng rất khó đào, lại gặp phải thời tiết thất thường, nhiều chướng khí, việc huy động nhân lực gặp nhiều khó khăn, nạn thú dữ… làm cho công việc có lúc phải gián đoạn hoặc chậm chạp. Trong quá trình đào kênh, Nguyễn Văn Thoại luôn tìm cách để khắc phục khó khăn, trở ngại.
Hiểu được khó khăn của ông, bước vào giai đoạn 2, vua Minh Mạng lệnh cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh hơn 45.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng sức người với dụng cụ thô sơ, hàng triệu mét khối đất đá và thay nhau thi công suốt ngày đêm, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được hơn 60 km.
Đợt cuối được tiến hành vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và quân, dân lên đến 25.000 người, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng 1 tháng 5 thì hoàn thành.
Có thể thấy, việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên là một thành quả rất to lớn với số nhân công lên đến trên 80.000 người, thời gian đào kênh suốt 5 năm (từ tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824). Lợi ích lớn nhất của kênh Châu Đốc - Hà Tiên không chỉ ở việc lưu thông bằng ghe thuyền đi lại, trao đổi buôn bán hay đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ cương thổ quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng dẫn nước ngọt từ sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng, xả phèn, rửa mặn cho mùa màng tươi tốt. Song song việc đào kênh Vĩnh Tế, ông Nguyễn Văn Thoại cho lập ven bờ kênh 5 làng: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông. Năm 1826, Nguyễn Văn Thoại đắp lộ đi từ Châu Đốc đến chân núi Vĩnh Tế (ngày nay là đường Nguyễn Văn Thoại và Tân Lộ Kiều Lương), công trình được thực hiện với 3.400 nhân công đến năm 1827 thì hoàn thành. Năm 1828, lộ được bồi bổ thêm với 1.000 nhân công làm từ ngày 18 tháng Giêng đến Rằm tháng Tư thì xong. Cũng trong năm này, ông cho dựng bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương”.
Khi tin vui về đến Triều đình Huế, vua Minh Mạng liền ban sắc khen thưởng và ra sắc cho quan địa phương làm bia dựng ở bờ sông, đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. vua nhận thấy, bên kia bờ kênh mới đào có núi Sam, có phần giống với núi Sập bên bờ kênh Thoại Hà trước kia và xét thấy Thoại Ngọc Hầu phu nhân, là dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, người đàn bà đức độ, luôn tận lực phụ giúp chồng trên đường công bộc, có nhiều đóng góp trong công tác hậu cần, có lúc bà thay chồng đôn đốc việc đào kênh. Từ đó, vua ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là “Vĩnh Tế Hà” và tên núi Sam gần bờ kênh là “Vĩnh Tế Sơn”, làng cạnh núi là “Vĩnh Tế Thôn”.
Khi nói về lợi ích của kênh Vĩnh Tế, sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Từ đây đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng”. Việc hoàn thành kênh Vĩnh Tế được dân chúng xem là một thành quả to lớn, có ảnh hưởng nhiều mặt đối với cư dân trong vùng. Dân mừng vì có đường giao thông thuận lợi từ Châu Đốc đi Hà Tiên. Giới chức biên phòng thời ấy cũng bớt gánh nặng nhờ có đường nước án ngữ ven biên. Kênh Vĩnh Tế xưa và nay cũng thế, không chỉ là một đường lưu thông thủy tiện lợi hay giữ gìn biên giới mà còn có tác dụng khác là đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua rửa phèn cho ruộng đồng.
Danh thần Thoại Ngọc Hầu lâm bệnh, tạ thế tại Châu Đốc ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Lăng mộ ông nằm dưới chân núi Sam với vẻ đẹp uy nghi, cổ kính; mặt hướng nhìn ra đường, lưng tựa vào vách núi, ung dung, đường bệ trên thềm cao với gần chục bậc thang đứng, xây bằng đá ong. Ông được vua Minh Mạng truy phong chức Tráng Võ Tướng quân, Trụ quốc Đô thống, thụy Võ Khác.
Với tài kinh bang tế thế, phò tá 2 vua Gia Long và Minh Mạng, đảm nhận nhiều trọng trách, được phong tước Ngọc Hầu, ông để lại cho đời sau nhiều công trình giá trị, công trạng hiển hách, những văn bia vô giá, lưu danh sử sách. Hiện, An Giang có nhiều ngôi đình thờ ông, trong số đó có hai ngôi đình, lớn nhất là Đình Vĩnh Tế ở phường Núi Sam, TP. Châu Đốc, có sắc phong do vua Khải Định ban ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) và Đình Thoại Sơn tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, có sắc phong của vua Bảo Đại ban ngày 15 tháng 8 âm lịch năm 1943. Các đền miếu thờ ông đều được người đời sau ngưỡng vọng, trùng tu khang trang và tế bái trọng thể.
2. Đóng góp của bà Châu Thị Tế
Bà Châu Thị Tế (1766-1826), là trưởng nữ của ông Châu Vĩnh Huy và bà Đỗ Thị Toán, từ miền Trung đến lập nghiệp định cư tại làng Thới Bình - cù lao Dài (sông Cổ Chiên), nay thuộc địa phận xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Cha bà là thầy giáo dạy học, thuộc tầng lớp khá giả, một gia đình nho học nhân văn có uy tín, được dân làng kính nể.
Theo Nguyễn Văn Hầu, dưới triều Nguyễn, dòng họ này có “mấy người làm quan to” và đời sau còn những người kế nghiệp, như: Châu Vĩnh Kiệt, Châu Vĩnh Hữu, Châu Vĩnh Thái.
Nguyễn Văn Thoại có 2 người vợ. Châu Thị Tế là chánh thất, Trương Thị Miệt là vợ thứ. Bà Châu Thị Tế có với ông Thoại 1 người con tên Nguyễn Văn Lâm, còn bà Miệt sinh cho ông Thoại 1 người con tên Nguyễn Văn Minh.
Sau khi nhà Nguyễn được thành lập vào năm 1802, với vai trò là “khai quốc công thần”, Nguyễn Văn Thoại được triều đình giao cho nhiều chức vụ quan trọng, như: Trấn thủ Lạng Sơn, Trấn thủ Định Tường, Bảo hộ Chân Lạp (Campuchia)... Vì lẽ đó, Châu Thị Tế đã cùng chồng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ bùi” từ Nam ra Bắc và ở tận xứ Chân Lạp xa xôi.
Đến năm 1817, Nguyễn Văn Thoại được bổ nhiệm làm Trấn thủ Vĩnh Thanh đã mở ra một chương mới trong sự nghiệp “kinh bang tế thế” của ông bà. Ở đâu, vợ chồng ông bà cũng để lại nhiều ân đức. Sau khi lập ra 5 thôn trên xứ Cù lao Dài, bà lại cùng chồng bén duyên với xứ sở miền Tây sông Hậu và biên viễn Tây Nam. Tại đây, năm 1818, Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại được vua Gia Long giao nhiệm vụ đào, vét con kênh nối từ Đông Xuyên thông ra Rạch Giá. Chỉ sau 1 tháng, kênh đã hoàn thành. Vua Gia Long khen ngợi, lấy tên ông đặt tên cho kênh mới đào là Thoại Hà và đổi tên núi Sập thành Thoại Sơn như một sự tán dương công trạng.
Việc hoàn thành kênh Thoại Hà trong vòng 1 tháng thật sự là kỳ công lưu danh thiên cổ của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Dân gian có câu: “Đằng sau người đàn ông thành công luôn có bóng dáng người phụ nữ”, với ông Thoại lại càng phù hợp. Châu Thị Tế không chỉ là người “nâng khăn sửa túi”, mà còn biết san sẻ gánh nặng quốc gia trọng sự cùng chồng. Với vai trò là người hỗ trợ phía sau, bà Châu Thị Tế đã không quản ngại khó khăn, gian khổ đảm nhận công việc hậu cần, lo cơm nước, thuốc thang, thăm hỏi, đôn đốc dân phu, lính tráng đào kênh một cách tận tâm.
Chính những kinh nghiệm hậu cần quý báu trong việc đào kênh Thoại Hà là tiền đề quan trọng để bà tiếp tục giúp chồng trong 1 công trình còn to lớn và dài hơi hơn là đào con kênh nối Châu Đốc với Hà Tiên suốt từ năm 1819 đến 1824.
Không chỉ giỏi trong việc hậu cần đào kênh, bà Châu Thị Tế còn đóng góp quan trọng vào công cuộc khai hoang lập làng, phát triển vùng biên viễn. Ngoài việc giúp chồng lập ra 5 thôn trên đất Cù lao Dài, bà Vĩnh Tế còn góp phần không nhỏ vào sự ra đời của Vĩnh tế sơn và Vĩnh Tế thôn. Đây là những thôn rất quan trọng trong việc phát triển vùng đất Thoại Sơn và Châu Đốc trong buổi đầu khai hoang mở đất trên vùng Tứ giác Long Xuyên.
Dưới triều Nguyễn, Nho giáo được xem là mực thước trị quốc, nền tảng của lễ nghi. Vai trò của người phụ nữ chưa được coi trọng. Song, đối với trường hợp của bà Châu Thị Tế là một ngoại lệ. Xuất phát từ sự đóng góp vô cùng to lớn của bà đối với sự nghiệp khai hoang, đào kênh, phát triển vùng đất “tân cương” cùng chồng Nguyễn Văn Thoại đã tạo được “đức dày trong đường lễ giáo”, tạo nên ấn tượng tốt đẹp và sự cảm khái từ triều đình Huế. Do đó, vua Nguyễn đã lấy tên bà đặt cho con kênh nối Châu Đốc với Hà Tiên dài 97km là kênh Vĩnh Tế. Tiếp đó, vua Nguyễn còn đổi tên núi Sam thành Vĩnh Tế Sơn và đặt tên cho ngôi làng mới lập với công lớn của ông bà ở dưới chân núi Sam là Vĩnh Tế Sơn thôn.
Năm Bính Tuất (1826), bà Châu Thị Tế đã trút hơi thở sau cùng tại Châu Đốc. Nhằm ghi nhận công lao của người phụ nữ tài đức vẹn toàn, vua Minh Mạng đã ra dụ phong cho bà là “Nhàn Tĩnh phu nhân”.
Vĩnh Tế - tên người đã lưu vào sử sách và tâm tưởng của bao thế hệ cư dân vùng Tây Nam biên viễn. Bà là tấm gương mẫu mực của người phụ nữ Nam Bộ giàu đức hạnh, tận hiến vì sự phát triển của quê hương, xứng đáng cho thế hệ hôm nay và mai sau noi theo. Với những đóng góp to lớn cho sự phát triển của vùng đất Châu Đốc - núi Sam từ thuở khai hoang, bà Châu Thị Tế đã trở thành nhân vật lịch sử đặc biệt của nơi này, bên cạnh tên tuổi danh thần Thoại Ngọc Hầu. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử được vua cho lấy tên đặt cho tên sông, tên núi, tên làng. Tên tuổi của bà đã gắn chặt với đời sống tinh thần của người dân An Giang nói riêng, Nam Bộ nói chung.
Những công lao của vợ chồng Nguyễn Văn Thoại và Châu Thị Tế đã biến đất Châu Đốc tân cương xưa và An Giang nay là nơi duy nhất trong cả nước có kênh chồng - kênh vợ (Thoại Hà - Vĩnh Tế), núi chồng - núi vợ (Thoại Sơn - Vĩnh Tế Sơn), thôn chồng - thôn vợ (Thoại Sơn thôn - Vĩnh Tế thôn).
Ngày nay, trên những vùng đất mà vợ chồng ông bà đã lưu dấu, Nhân dân luôn tạc dạ ghi ơn, dựng tượng, lập đình thờ để tưởng nhớ. Tên ông bà còn được đặt cho nhiều trường THPT lớn trong tỉnh An Giang và Kiên Giang, như: Trường THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu (TP. Long Xuyên), Trường THPT Nguyễn Văn Thoại (huyện Thoại Sơn), Trường THPT Châu Thị Tế (TP. Châu Đốc), Trường Mầm non Vĩnh Tế toạ lạc tại xã Vĩnh Tế và Trường THPT Thoại Ngọc Hầu (huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang).
IV. VAI TRÒ, GIÁ TRỊ TO LỚN CỦA KÊNH VĨNH TẾ TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐỊA PHƯƠNG, ĐẤT NƯỚC
1. Sứ mệnh trấn biên, khẳng định chủ quyền
Sự ra đời của kênh Vĩnh Tế (năm 1824) là bước đi rất quan trọng trong chiến lược phòng thủ biên giới Tây Nam của triều Nguyễn. Những giá trị con kênh này mang lại càng khẳng định chủ trương phát triển giao thông trên vùng biên giới của triều Nguyễn, là bước đi đúng đắn nhằm giải quyết 2 nhiệm vụ bức thiết là phát triển vùng đất mới và thiết lập thế trận phòng thủ biên cương, khẳng định chủ quyền đất nước. Đại Nam nhất thống chí chép: “Từ đấy đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng”.
Với chính sách quốc phòng dựa vào tiềm lực nội tại, triều Nguyễn đã nỗ lực thiết lập thế trận phòng thủ biên giới trên cơ sở phát huy sự quan yếu của các tuyến đường thủy trọng yếu. Trong đó, kênh Vĩnh Tế được xem “mũi kim” khai thông “nguyệt đạo” làm cho mạch máu giao thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên được vận hành trơn tru để kết nối vùng biên giới Tây Nam thành một dải.
Do tầm quan trọng của tuyến biên giới trên bộ với Chân Lạp (Campuchia), triều Nguyễn đã triệt để tận dụng các tuyến sông làm hàng rào biên giới. Trong thế trận phòng thủ ấy, kênh Vĩnh Tế là mảnh ghép quan trọng cuối cùng trong chiến lược tận dụng “hàng rào nước” dọc tuyến biên giới để thiết lập hệ thống phòng thủ và khẳng định chủ quyền quốc gia.
“Hàng rào nước” bắt đầu từ phía Tây của đầu nguồn sông Hậu (sông Bassac) chạy dọc theo tuyến biên giới Tây Nam, kéo dài liên tục đến tận cửa biển Hà Tiên. Tuyến thủy lộ này có độ dài khoảng 140km với 4 đoạn đường nước, gồm: Sông Bình Ghi (10km), sông Phú Hội hay sông Takeo hoặc sông Ankor Borei (15km), sông Châu Đốc (18km) và kênh Vĩnh Tế (97km). Trong đó, kênh Vĩnh Tế được xem là thủy lộ quan trọng nhất để kết nối 2 trung tâm quốc phòng Châu Đốc - Hà Tiên và đóng vai trò như một phòng tuyến quân sự có khả năng phòng ngự linh hoạt trong hoàn cảnh xảy ra chiến tranh với Chân Lạp và Xiêm La (Thái Lan). Tận dụng sự cơ động của sông nước biên giới, triều Nguyễn đã từng bước xây dựng hàng loạt các cơ sở quân sự, quốc phòng từ đầu nguồn sông Hậu cho đến Hà Tiên để giữ nước. Riêng đối với kênh Vĩnh Tế, với vai trò trọng yếu trong chiến lược trù biên, triều Nguyễn đã thiết lập nhiều cơ sở quân sự, quốc phòng kéo dài từ Châu Đốc đến cửa biển Hà Tiên.
Sự thiết lập số lượng lớn các cơ sở quân sự, quốc phòng dọc tuyến kênh Vĩnh Tế cho thấy quyết tâm phòng thủ đất nước dựa vào tuyến kênh này của triều Nguyễn. Kênh Vĩnh Tế là hệ thống phòng thủ đường thủy ở phía trước, linh hoạt trong tác chiến được hỗ trợ từ hệ thống phòng thủ bộ binh của Thất Sơn ở phía sau. Đồng thời, nó cũng kết hợp với 2 hệ thống phòng thủ trên sông Hậu và sông Tiền để tạo ra thế tấn công địch liên tục. Tướng nhà Nguyễn Lê Văn Đức từng cho ý kiến rằng: “Sông Vĩnh Tế là đường sau của Hà Tiên, thông vào tận ruột tỉnh An Giang, việc phòng bị rất là quan trọng”.
Quan trọng hơn cả, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như 1 công trình đánh dấu, xác lập chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ. Từ trong lịch sử, vấn đề chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ vốn rất nhạy cảm và dễ gây những bất đồng, xung đột giữa người Việt và người Chân Lạp.
Trong thế kỷ XVII và XVIII, vùng đất Nam Bộ được đẩy mạnh khai phá và dần mở rộng, nhất là theo các tuyến sông, kênh rạch. Theo đó, hệ thống chính quyền chúa Nguyễn cũng lần lượt ra đời, các đồn lũy bảo vệ đất đai, dân cư được dựng lên; hệ thống kênh rạch được nạo vét, đào mới phục vụ cho việc trị an, quốc phòng; chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng được đẩy mạnh... Đây là những đảm bảo chắc chắn để lưu dân người Việt ngày càng vững tâm tiến vào khai phá lập nghiệp trên vùng đất Nam Bộ xưa.
Suốt 200 năm qua, kênh Vĩnh Tế vẫn vươn mình hiên ngang trấn thủ biên cương, nuôi dưỡng biết bao đời cư dân vùng biên viễn và khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia, dân tộc Việt Nam. Dòng Vĩnh Tế mãi là món quà vô giá mà ông cha đã để lại cho các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau tiếp tục gìn giữ, phát huy vai trò to lớn của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên vùng biên viễn Tây Nam. Như vua Minh Mạng đã nói: “Thực là quan yếu cho quốc kế biên trù” lợi ức muôn năm vô cùng về sau.
2. Vai trò, giá trị to lớn của kênh Vĩnh Tế trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
Kênh Vĩnh Tế được đào song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thuộc phường Vĩnh Nguơn (thành phố Châu Đốc, An Giang) thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, đã tạo ra một hệ thống thủy lợi thượng nguồn quan trọng cho vùng Tứ giác Long Xuyên, góp phần khai phá, cải tạo và phát triển vùng đất này. Đến hiện tại, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thuỷ, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của Nhân dân Việt.
Kênh Vĩnh Tế được xem là “kênh mẹ” để hình thành các kênh T5, T4, T3, các kênh này có đầu nguồn bắt đầu từ kênh Vĩnh Tế, tạo thành một mạng lưới thủy lợi dày đặc đưa nước ngọt từ sông Hậu vào sâu trong vùng Tứ giác Long Xuyên, hệ thống này giúp phân phối nước một cách đồng đều, cải thiện hệ thống thoát nước (thoát lũ), cung cấp nước tưới tiêu ổn định, giúp rửa phèn, dẫn phù sa cải tạo đất, tăng cường độ phì nhiêu cho đất, cải thiện điều kiện canh tác làm cho cây lúa sinh trưởng tốt và cho năng suất cao, sản xuất từ 1 vụ sang 2 vụ ăn chắc và đang tiến lên 3 vụ. Việc đầu tư bài bản, đồng bộ với các công trình thủy lợi lớn trong suốt thời gian dài, đã biến Tứ giác Long Xuyên từ hoang hóa, nhiễm phèn nặng thành vùng sản xuất trù phú, trọng điểm sản xuất lương thực của Đồng bằng sông Cửu Long và vươn mình là vùng trọng điểm sản xuất lúa của cả nước.
Song song đó với sự cộng hưởng các giá trị đưa dòng kênh Vĩnh Tế trở thành hành trình du lịch mang tính chất cảnh quan sinh thái, lịch sử - văn hóa, trên bộ - dưới thuyền làm đa dạng hóa các loại hình du lịch địa phương phục vụ du kháchtrong giai đoạn mới. Tập trung khai thác các hoạt động du lịch trên kênh Vĩnh Tế có thể bao gồm tham quan bằng thuyền, khám phá cảnh quan thiên nhiên và cuộc sống ven sông, tìm hiểu văn hóa, lịch sử vùng đất và con người, trải nghiệm đời sống thương hồ và đặc trưng mùa nước nổi. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng như xây dựng bến tàu, cầu, đường để phục vụ du lịch. Tổ chức các sự kiện và hoạt động du lịch như hội chợ, triển lãm và các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với kênh Vĩnh Tế để thu hút khách du lịch. Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản dọc kênh Vĩnh Tế tạo điểm đến hấp dẫn du khách.
Qua 200 năm lịch sử cho đến nay, kênh Vĩnh Tế được ghi nhận là kênh đào thủ công quý giá của vùng biên giới Tây Nam Tổ quốc, khẳng định chủ quyền bờ cõi và làm nên vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long trù phú. Kênh Vĩnh Tế còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, việc xây dựng kênh Vĩnh Tế là một quá trình đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực và đồng lòng của hàng ngàn người dân, đây chính là nét đẹp văn hóa của con dân nước Việt. Bên cạnh đó, với những khó khăn, vất vả do điều kiện thiên nhiên và vật chất gắn liền với những câu chuyện, truyền thuyết dân gian khi đào kênh tạo nên một kho tàng văn hóa phong phú. Đồng thời, đây được xem là một minh chứng hữu hiệu cho việc giáo dục giúp thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, hiểu rõ hơn về lịch sử, truyền thống của cha ông ta để lại.
V. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÀO MỪNG LỄ KỶ NIỆM 200 NĂM HOÀN THÀNH KÊNH VĨNH TẾ VÀ TƯỞNG NIỆM 198 NĂM NGÀY MẤT BÀ CHÂU THỊ TẾ.
Việc tổ chức kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) nhằm để khẳng định giá trị kênh Vĩnh Tế, một công trình thủy lợi lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kênh tế, xã hội, quốc phòng an ninh của vùng đất An Giang và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân đối với địa phương, tôn vinh công đức người xưa để thế hệ trẻ học tập noi theo. Tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu rộng rãi đến người dân, du khách giá trị văn hóa tiêu biểu, đặc sắc về vùng đất, con người và những tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Các hoạt động kỷ niệm bao gồm:
- Các nghi thức truyền thống tưởng niệm 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024): Gồm 2 nghi thức được tổ chức tại di tích cấp quốc gia Lăng Thoại Ngọc Hầu, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc do Ban Quản trị Lăng Miếu núi Sam chịu trách nhiệm thực hiện:
+ Lễ cúng Tiên thường vào lúc 16 giờ 00 phút, thứ Năm, ngày 14/11/2024 (nhằm ngày 14/10 Âl).
+ Lễ cúng Chánh tế vào lúc 04 giờ 00 phút, thứ Sáu, ngày 15/11/2024 (nhằm ngày 15/10 Âl).
- Hội thảo khoa học cấp quốc gia “200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và tầm nhìn tương lai” tổ chức vào lúc 7 giờ 30, thứ Năm, ngày 14/11/2024 và trực tiếp trên nền tảng số của Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang tại Hội trường Thành ủy Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) tổ chức vào lúc 20 giờ 00, thứ Năm, ngày 14/11/2024; truyền hình trực tiếp trên Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang và nền tảng số tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Thực hiện chăm lo, thăm hỏi gia đình chính sách, gia đình có công và an sinh xã hội trên địa bàn thành phố nhân kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024).
- Cuộc thi ảnh nghệ thuật chủ đề “Ảnh đẹp – Kênh Vĩnh Tế” dự kiến từ ngày 15/10/2024 đến ngày 14/11/2024.
- Các hoạt động thể thao: Giải bóng chuyền hơi; Pickleball từ ngày 9/11/2024 đến ngày 10/11/2024 tại Nhà thi đấu đa năng thành phố Châu Đốc.
- Tổ chức Không gian trưng bày, triển lãm chuyên đề về “200 năm kênh Vĩnh Tế - Giá trị lịch sử và thành tựu” tại Hội trường Thành ủy Châu Đốc và Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Thực hiện xe hoa tuyên truyền lưu động về giá trị lịch sử kênh Vĩnh Tế, nhân vật lịch sử Châu Thị Tế (1766 - 1826) từ ngày 12/11 đến hết ngày 14/11/2024.
- Tổ chức không gian ẩm thực; trưng bày sản phẩm OCOP, hàng hóa đặc trưng; trò chơi dân gian, trò chơi vận động; trình diễn thư pháp từ ngày 12/11/2024 đến hết ngày 14/11/2024 tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Tổ chức Giải Việt dã vô địch tỉnh An Giang từ ngày 12/11/2024 đến ngày 13/11/2024 tại đường Tân Lộ Kiều Lương, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang (phía trước Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh thành phố Châu Đốc).
- Hội diễn Lân sư rồng dự kiến vào lúc 15 giờ 00, ngày 13/11/2024 tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
- Tổ chức chương trình văn nghệ phục vụ sự kiện kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và tưởng niệm 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024) dự kiến vào lúc 19 giờ 30, ngày 13/11/2024 tại Trung tâm thương mại Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
VI. MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1. Nhiệt liệt chào mừng Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024)!
2. Kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024)!
3. Giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử kênh Vĩnh Tế cho tương lai!
4. Phát huy giá trị 200 năm di sản kênh Vĩnh Tế cho tương lai!
5. Di sản văn hóa kênh Vĩnh Tế 200 năm - Niềm tự hào của dân tộc!
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY - UBND THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC
____________
[1] Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr 43.
[2] Gia Định thành thông chí, sđd, tr249.
[3] Đại Nam nhất thống chí, phần An Giang tỉnh, mục Sơn Xuyên.
[4] Việc này được nêu rõ trong Bia Thoại Sơn: “Ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kinh dài 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành một con sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi”.
* Tài liệu tham khảo:
1. Kế hoạch số 977/KH-UBND, ngày 10/10/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824-2024), tưởng niệm 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế (1826-2024).
2. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “An Giang 190 năm hình thành và phát triển (1832-2022).
3. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lịch sử 265 năm từ Châu Đốc Đạo đến thành phố Châu Đốc (1757-2022).
4. Tài liệu Hội thảo Khoa học Nhân vật lịch sử Châu Thị Tế (1766 -1826).
5. Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
6. Danh thần Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại với quê hương và miền Tây Nam Bộ của tác giả Lê Duy Anh.
7. Bài viết “Công lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An Giang” của tác giả Hoàng Kỳ (TS Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang), đăng trên Cổng Thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang, ngày 11/7/2024.
8. Bài viết “200 năm kênh Vĩnh Tế - Tầm nhìn chiến lược của tiền nhân” của tác giả TS DƯƠNG THẾ HIỀN (Trường Đại học An Giang), đăng trên Báo An Giang điện tử ngày 23/8/2024.
9. Bài viết “200 năm kênh Vĩnh Tế: Vĩnh Tế - Tên người lưu danh sông núi” của tác giả TS DƯƠNG THẾ HIỀN (Trường Đại học An Giang), đăng trên Báo An Giang điện tử ngày 13/9/2024.
10. Bài viết “200 năm kênh Vĩnh Tế: Sứ mệnh trấn biên, khẳng định chủ quyền” của tác giả TS DƯƠNG THẾ HIỀN (Trường Đại học An Giang), đăng trên Báo An Giang điện tử ngày 27/9/2024.