Tìm hiểu về chủ quyền không gian mạng
- Được đăng: Thứ tư, 01 Tháng 9 2021 09:35
- Lượt xem: 3047
(TUAG)- Khái niệm về “chủ quyền” xuất hiện từ năm 1648 khi hệ thống Westphalia ra đời, theo đó cho rằng, các nhà nước có chủ quyền đối với các lãnh thổ và vấn đề nội bộ của quốc gia mình mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp. Nguyên tắc chủ quyền gắn chặt với luật pháp quốc tế và có liên quan tới sự bình đẳng, do đó, mỗi quốc gia bình đẳng với nhau theo luật pháp quốc tế và không có quyền áp đặt lên bất kỳ quốc gia nào.
“Không gian mạng” là mạng lưới kết nối của kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian(1).
Từ góc độ lý thuyết, từ năm 1994, một số học giả quốc tế đã đề cập đến mối quan hệ giữa “không gian mạng” và “chủ quyền quốc gia” hay sự liên quan trong việc áp dụng các lý thuyết trong quan hệ quốc tế đối với internet. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ và internet đi kèm với sự nổi lên của các vấn đề an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng, do thám mạng, nguy cơ xung đột, chiến tranh mạng giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế...
Những vấn đề này đặt ra yêu cầu về quản lý, bảo vệ lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng hay còn được hiểu chung trong thuật ngữ “chủ quyền không gian mạng”. Có nhiều ý kiến cho rằng, chủ quyền quốc gia tồn tại trong không gian mạng vì có sự tồn tại của các kết cấu hạ tầng thiết yếu để không gian mạng hình thành và chủ quyền không gian mạng có thể được coi là sự nối dài về quy tắc lãnh thổ trong chủ quyền.
Thời gian qua, các học giả của Trung Quốc và Nga đã đưa ra nhiều quan điểm cụ thể về vấn đề chủ quyền không gian mạng. Đáng chú ý, giới học giả ở Trung Quốc cho rằng, trong suốt chiều dài lịch sử văn minh thế giới, ý nghĩa của chủ quyền quốc gia đã thay đổi và ngày càng phong phú theo thời gian. Điều này được thể hiện qua sự phát triển về phạm vi áp dụng của chủ quyền quốc gia từ các cuộc cách mạng nông nghiệp (đất đai - toàn vẹn lãnh thổ), công nghiệp (mở rộng trên biển và bầu trời), thông tin (biên giới mới trong không gian mạng). Do vậy, chủ quyền quốc gia sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua chủ quyền không gian mạng; không có chủ quyền không gian mạng, trật tự quốc tế không gian mạng sẽ bị đảo lộn và hỗn loạn; quyền và lợi ích của các bên tham gia trong không gian mạng sẽ không được bảo đảm.
Các quốc gia có chủ quyền là những chủ thể chính trong việc thực hiện các hoạt động và duy trì trật tự trong không gian mạng. Theo các học giả Trung Quốc, để tạo điều kiện thuận lợi cho quản trị internet toàn cầu công bằng và bình đẳng hơn cũng như xây dựng một cộng đồng chung trong không gian mạng vì lợi ích chung của nhân loại, cộng đồng quốc tế cần tuân thủ và thực hành khái niệm chủ quyền trong không gian mạng trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc tham vấn bình đẳng, gạt bỏ khác biệt và tìm kiếm điểm chung tối đa.
Song, cũng có quan điểm cho rằng, chủ quyền không gian mạng chỉ có thể đạt được bằng việc “hy sinh” hầu hết những gì khiến internet trở nên có giá trị và điều này không dễ thực hiện, bởi vì có những tên miền internet không có chủ quyền; các giao thức internet tạo ra một hàng hóa chung toàn cầu (mã nguồn mở - không duy nhất và không độc quyền) và một không gian ảo phi lãnh thổ; không có độc quyền về việc sử dụng vũ lực hợp pháp trong không gian mạng.
Ngoài ra, giới học giả cũng đề cập đến thuật ngữ “chủ quyền số” và “chủ quyền dữ liệu” trong thời gian gần đây. Theo đó, chủ quyền số là một sự sắp xếp mở, hoan nghênh các chủ thể khác tham gia sử dụng một khuôn khổ dựa trên các luật lệ. Hơn nữa, sự khác biệt cơ bản giữa chủ quyền không gian mạng và chủ quyền số là đối tượng điều chỉnh của chủ quyền không gian mạng là lợi ích quốc gia; đối tượng điều chỉnh của chủ quyền số là lợi ích kinh tế, kinh doanh và viễn thông. Chủ quyền dữ liệu là quản lý thông tin theo cách thống nhất với luật pháp, thực tiễn và tập quán của quốc gia, dân tộc - nơi dữ liệu được lưu trữ. Theo đó, dữ liệu có thể bị cấm chia sẻ ở quốc gia này theo luật pháp nước đó, nhưng lại hoàn toàn hợp pháp khi chia sẻ ở quốc gia khác.
Quân đội Mỹ tăng cường quan tâm đến lĩnh vực không gian mạng, thành lập các đơn vị đặc biệt có nhiệm vụ bảo vệ và nghiên cứu các hình thức chiến tranh mạng
Từ góc độ thực tiễn, ở cấp độ toàn cầu, Tuyên bố năm 2003 về các nguyên tắc của Hội nghị thượng đỉnh thế giới về xã hội thông tin (WSIS) nêu rõ thẩm quyền chính sách đối với các vấn đề chính sách công liên quan đến internet là quyền chủ quyền của các quốc gia. Báo cáo của Nhóm chuyên gia chính phủ Liên hợp quốc (UNGGE)(2) năm 2013 và năm 2015 nhấn mạnh, chủ quyền của nhà nước và các chuẩn mực, luật lệ quốc tế bắt nguồn từ chủ quyền áp dụng cho việc nhà nước tiến hành các hoạt động liên quan đến công nghệ thông tin - truyền thông; nguyên tắc chủ quyền là cơ sở để tăng cường bảo mật trong việc sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông của các quốc gia. Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) năm 2015 khẳng định luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc, có thể áp dụng đối với hành vi của nhà nước trong việc sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông và cam kết với quan điểm rằng tất cả các quốc gia phải tuân thủ những chuẩn mực về hành vi của nhà nước có trách nhiệm trong sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông. Tuyên bố Goa của Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) năm 2016 tiếp tục nhấn mạnh đến việc sử dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông thông qua hợp tác quốc tế và khu vực, trên cơ sở các chuẩn mực cũng như nguyên tắc được chấp nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế, bao gồm cả Hiến chương Liên hợp quốc về vấn đề độc lập chính trị, toàn vẹn lãnh thổ và bình đẳng chủ quyền của các quốc gia...
Báo cáo của UNGGE năm 2021 cũng xác nhận lại các kết luận trong Báo cáo của UNGGE năm 2015, rằng chủ quyền quốc gia và các chuẩn mực, nguyên tắc quốc tế xuất phát từ chủ quyền áp dụng cho hành vi của các quốc gia có hoạt động liên quan đến công nghệ thông tin - truyền thông và quyền tài phán của họ đối với kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông trong lãnh thổ của họ, đồng thời khẳng định hiện có các quy định của luật pháp quốc tế được áp dụng cho những hoạt động liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông của các quốc gia. Về trách nhiệm hành xử của các quốc gia, Báo cáo của UNGGE năm 2021 tái khẳng định, các quốc gia không được sử dụng hình thức ủy nhiệm để thực hiện các hành vi trái pháp luật trên phạm vi quốc tế thông qua sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông; cần bảo đảm lãnh thổ quốc gia không bị các thế lực bên ngoài lợi dụng để thực hiện các hành vi đó. Tuy nhiên, Báo cáo chưa khẳng định rõ chủ quyền trong không gian mạng giống như một quy tắc ràng buộc.
Báo cáo của Nhóm công tác mở về an ninh mạng (OEWG) của Liên hợp quốc năm 2021 tuy không đề cập trực tiếp đến vấn đề chủ quyền không gian mạng, song bản báo cáo tóm tắt của Chủ tịch OEWG có nêu quan điểm của các nước đối với việc áp dụng một số nguyên tắc cụ thể của luật pháp quốc tế về chủ quyền quốc gia, bình đẳng chủ quyền đối với việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy môi trường công nghệ thông tin - truyền thông hòa bình, dễ tiếp cận, an toàn, ổn định và mở rộng... Bên cạnh đó, một số quốc gia trong thời gian qua cũng bày tỏ quan điểm ủng hộ cách tiếp cận áp dụng chủ quyền trong luật quốc tế đối với các hoạt động mạng.
Ở cấp độ khu vực, Liên minh châu Âu (EU) tiếp cận vấn đề chủ quyền không gian mạng trên cơ sở đưa ra khái niệm “chủ quyền công nghệ/chủ quyền số”, trong đó nhấn mạnh cần tập trung bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền kiểm soát dữ liệu của công dân EU trên lãnh thổ các quốc gia EU, trong bối cảnh EU cho rằng vấn đề kiểm soát dữ liệu cá nhân của các công dân EU, cũng như việc các công ty công nghệ của EU và các quốc gia EU thực hiện nội luật của mình, đang bị đe đọa nghiêm trọng bởi các công ty công nghệ bên ngoài EU. Dịch bệnh COVID-19 được xem là một minh chứng rõ nét, đang đặt ra những quan ngại về việc EU phụ thuộc vào các công cụ phân tích dữ liệu được phát triển bên ngoài EU có thể được sử dụng để theo dõi người dân EU, đánh giá nguy cơ mắc vi-rút...
Ngoài ra, hầu hết các nền tảng trực tuyến thuộc các công ty nước ngoài cũng được cho là đang xâm phạm chủ quyền các quốc gia thành viên EU trong các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, bảo vệ dữ liệu, thuế và giao thông, thương mại điện tử... Năm 2018, EU ban hành Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) và đề ra Chiến lược thúc đẩy các tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu quốc tế. EU hiện cũng đưa các điều khoản trong GDPR vào nội luật và các thể chế đa phương đang cân nhắc việc lựa chọn GDPR làm tiêu chuẩn toàn cầu trong các hoạt động của mình. Trước đó, năm 2001, EU đã thông qua Công ước Bu-đa-pét về tội phạm mạng - điều ước quốc tế duy nhất có hiệu quả nhằm thiết lập khuôn khổ pháp lý chung cho công tác phòng, chống tội phạm mạng.
Cao ủy châu Âu phụ trách về các vấn đề số từng khẳng định, chủ quyền số là một trong những mục tiêu quan trọng cho chính sách số của châu Âu. Năm 2017, tài liệu “Hướng dẫn Tallinn 2.0” về luật pháp quốc tế áp dụng cho hoạt động không gian mạng của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), đã đưa ra cách thức áp dụng luật pháp quốc tế cho các hoạt động mạng trong thời bình và trong các cuộc xung đột chiến tranh, cung cấp phân tích pháp lý về những sự cố mạng phổ biến mà các quốc gia phải đối mặt hằng ngày và những sự cố này rơi vào ngưỡng dưới của sử dụng vũ lực hoặc xung đột vũ trang. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hiện chưa có một điều ước quốc tế chính thức nào về an ninh mạng hay văn bản có đề cập đến chủ quyền không gian mạng ngoài khuôn khổ Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF).
Ở cấp độ quốc gia, trong năm 2011 và 2015, Bộ Quy tắc ứng xử quốc tế về an ninh thông tin do Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác đưa ra đã tái khẳng định thẩm quyền chính sách đối với các vấn đề chính sách công liên quan đến internet là quyền chủ quyền của các quốc gia. Luật An ninh mạng năm 2016 của Trung Quốc tập trung vào các nội dung quan trọng, như bảo vệ chủ quyền không gian mạng quốc gia, bảo vệ kết cấu hạ tầng thiết yếu, dữ liệu và bảo vệ thông tin cá nhân. Việc địa phương hóa dữ liệu được coi là thành tố quan trọng góp phần bảo vệ và gìn giữ chủ quyền không gian mạng của Trung Quốc. Những năm gần đây, Trung Quốc chủ động tham gia và thúc đẩy vai trò lớn hơn trong quản trị internet toàn cầu, kêu gọi các quốc gia tôn trọng “chủ quyền không gian mạng” của Trung Quốc với ý tưởng các quốc gia nên tự do kiểm soát và kiểm duyệt hạ tầng internet của mình nếu thấy phù hợp(3).
Đối với Nga, Học thuyết an ninh thông tin mới của Nga được Tổng thống Nga Vla-đi-mia Pu-tin ban hành vào ngày 5-12-2016, nhấn mạnh việc bảo vệ chủ quyền của Nga trong không gian thông tin thông qua chính sách độc lập nhằm theo đuổi các lợi ích quốc gia của Nga; bảo vệ chủ quyền an ninh thông tin của Nga trước các mối đe dọa ngày càng gia tăng trên internet. Tháng 5-2019, Tổng thống V. Pu-tin ban hành Luật Chủ quyền internet (có hiệu lực kể từ ngày 1-11-2019), nhằm bảo đảm hệ thống internet nội bộ của Nga hoạt động ổn định cả trong trường hợp nước Nga bị ngắt kết nối với kết cấu hạ tầng internet toàn cầu do bị tấn công mạng.
Mỹ mặc dù không ủng hộ về chủ quyền không gian mạng, tuy nhiên các nội dung trong các văn bản pháp lý như Luật An ninh mạng (năm 2015), Luật Yêu nước, các chiến lược an ninh quốc gia, chính sách của nước này đều đề cập đến nguy cơ/mối đe dọa đến an ninh quốc gia từ an ninh mạng. Đáng chú ý, Luật Yêu nước của Mỹ có những quy định về bảo vệ dữ liệu, yêu cầu truy cập dữ liệu ở trong và ngoài nước Mỹ - được đánh giá tương tự nội dung về chủ quyền dữ liệu.
Một số các quốc gia khác, như Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ... cũng ban hành các văn bản đề cập đến chủ quyền số (Pháp), chủ quyền dữ liệu (Ấn Độ), hay coi không gian mạng là vấn đề thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia khu vực, gắn bó chặt chẽ với các chủ quyền về đất liền, biển, đảo, trên không và vũ trụ (Nhật Bản).
Một số vấn đề đặt ra
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau, song có thể thấy vấn đề chủ quyền không gian mạng đã và đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều nước trên thế giới. Nội dung này được cho là sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết thách thức không chỉ đối với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế mà còn đối với các nguyên tắc chủ quyền quốc gia cũng như việc thiết lập trật tự quốc tế trên không gian mạng. Thời gian tới, thế giới được dự báo tiếp tục phải đối mặt với một số vấn đề đặt ra từ không gian mạng, an ninh mạng nói chung và chủ quyền không gian mạng nói riêng, cụ thể như:
Về chính trị - an ninh - pháp lý:
Thứ nhất, nguy cơ gia tăng bất đồng, tranh chấp và thậm chí là xung đột giữa các nước lớn trong áp dụng chủ quyền không gian mạng có thể dẫn đến sự thay đổi trật tự thế giới. Việc thiếu các cơ chế phù hợp để bổ trợ cho khái niệm chủ quyền không gian mạng ở tầm quốc tế đã khiến các quốc gia gia tăng chạy đua và đưa ra nhiều định nghĩa mở rộng về khái niệm này để lập luận cho các hành động về gián điệp mạng, quân sự mạng... Thực tế cho thấy, các nguy cơ từ chủ thể phi nhà nước chiếm quyền kiểm soát máy chủ của một quốc gia gây gián đoạn các trang điện tử quan trọng của quốc gia khác hay việc sử dụng “botnet” tấn công mạng vào hệ thống kết cấu hạ tầng mạng quan trọng của các trang mạng lớn, như Twitter, Netflix... sẽ tác động không nhỏ đến mối quan hệ giữa các quốc gia, thậm chí có thể dẫn đến những cuộc tấn công mạng...
Bên cạnh đó là những nguy cơ đối với an ninh quốc gia xung quanh việc một số quốc gia triển khai chủ quyền dữ liệu tại một số nơi trên thế giới, cũng như năng lực, trình độ của các quốc gia trong việc bảo đảm an ninh mạng và không gian mạng còn có sự chênh lệch. Nỗ lực của các quốc gia trong việc ứng phó, phòng, chống các cuộc tấn công mạng luôn gặp khó khăn do nhiều yếu tố: hạn chế về năng lực, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin; quá trình ban hành các văn bản pháp luật quy định về biện pháp, chế tài thường mất khá nhiều thời gian, vì thế, khi các văn bản, chế tài được ban hành đã trở nên lạc hậu so với những thủ đoạn mới của tin tặc; thiếu chặt chẽ trong sự điều phối giữa các cơ quan chức năng có liên quan.
Thứ hai, các giới hạn và biên giới trong chủ quyền không gian mạng, các quy định, luật lệ về chủ quyền không gian mạng mà các quốc gia trên thế giới đưa ra trong thời gian qua cần có thêm thời gian kiểm chứng. Hơn nữa, cách tiếp cận và cách thức hợp tác trong không gian mạng chưa có sự thống nhất chung. Hiện nay, nhiều nước kêu gọi sự gia nhập rộng rãi hơn vào cơ chế của Công ước Bu-đa-pét, tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về Công ước này. Một số nước bày tỏ quan ngại do không được tham gia quá trình đàm phán Công ước nên lợi ích của quốc gia họ không được phản ánh rõ ràng trong Công ước, vì thế cần phải xây dựng một công ước mới mang tính phổ quát hơn.
Thứ ba, việc diễn giải và áp dụng luật pháp quốc tế trong không gian mạng còn thiếu sự đồng thuận. Các tổ chức quốc tế, bao gồm Liên hợp quốc và NATO, đã thông qua những văn kiện khuyến nghị về những nguyên tắc của luật pháp quốc tế áp dụng trong không gian mạng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, những văn bản đó mới chỉ đưa ra được những nguyên tắc chung, việc áp dụng cụ thể các nguyên tắc đó còn nhiều điểm chưa rõ ràng.
Về kinh tế - xã hội:
Thứ nhất, nguy cơ về sự “vỡ vụn” của internet khi các quốc gia thiết lập chủ quyền trong không gian mạng. Vấn đề quản trị internet sẽ gặp không ít thách thức liên quan đến phát sinh tranh cãi về tầng nấc quản trị internet khi ngày càng có sự tham gia của nhiều chủ thể lợi ích.
Thứ hai, thách thức liên quan đến việc làm rõ những khác biệt trong áp dụng chủ quyền không gian mạng và vi phạm các quyền con người, trong đó có quyền riêng tư. Bởi thực tế hiện nay, có không ít quan ngại về phạm vi, giới hạn, thậm chí là vi phạm trong việc áp dụng, vận dụng vào thực tế các nội dung liên quan đến chủ quyền không gian mạng đối với quyền được thể hiện quan điểm trên internet của người dân.
Thứ ba, các thách thức về công nghệ, kết cấu hạ tầng số, như tính không tương thích, trong hợp tác về các tiêu chuẩn công nghệ, quy định, quản lý và hợp tác quốc tế xuyên biên giới cũng như sự tương tác và kết nối của internet toàn cầu; tranh cãi liên quan đến những thiệt hại có thể có về kinh tế khi thực hiện kiểm soát công nghệ, kỹ thuật, dữ liệu...; làm sao để có thể giảm sự phụ thuộc vào các phần mềm, thiết bị viễn thông bên ngoài.
(1) Xem: Nguyễn Văn Tỵ: “Nâng cao ý thức làm chủ và bảo vệ không gian mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân”.
(2) UNGGE là nhóm chuyên gia chính phủ của Liên hợp quốc do Mỹ đề xuất thành lập với sự tham gia của 25 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, được bầu theo nguyên tắc luân phiên, tập trung thảo luận các vấn đề về không gian mạng và an ninh mạng
(3) Phát biểu của Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hội nghị thế giới về internet năm 2015.
“Không gian mạng” là mạng lưới kết nối của kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian(1).
Từ góc độ lý thuyết, từ năm 1994, một số học giả quốc tế đã đề cập đến mối quan hệ giữa “không gian mạng” và “chủ quyền quốc gia” hay sự liên quan trong việc áp dụng các lý thuyết trong quan hệ quốc tế đối với internet. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ và internet đi kèm với sự nổi lên của các vấn đề an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng, do thám mạng, nguy cơ xung đột, chiến tranh mạng giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế...
Những vấn đề này đặt ra yêu cầu về quản lý, bảo vệ lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng hay còn được hiểu chung trong thuật ngữ “chủ quyền không gian mạng”. Có nhiều ý kiến cho rằng, chủ quyền quốc gia tồn tại trong không gian mạng vì có sự tồn tại của các kết cấu hạ tầng thiết yếu để không gian mạng hình thành và chủ quyền không gian mạng có thể được coi là sự nối dài về quy tắc lãnh thổ trong chủ quyền.
Thời gian qua, các học giả của Trung Quốc và Nga đã đưa ra nhiều quan điểm cụ thể về vấn đề chủ quyền không gian mạng. Đáng chú ý, giới học giả ở Trung Quốc cho rằng, trong suốt chiều dài lịch sử văn minh thế giới, ý nghĩa của chủ quyền quốc gia đã thay đổi và ngày càng phong phú theo thời gian. Điều này được thể hiện qua sự phát triển về phạm vi áp dụng của chủ quyền quốc gia từ các cuộc cách mạng nông nghiệp (đất đai - toàn vẹn lãnh thổ), công nghiệp (mở rộng trên biển và bầu trời), thông tin (biên giới mới trong không gian mạng). Do vậy, chủ quyền quốc gia sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua chủ quyền không gian mạng; không có chủ quyền không gian mạng, trật tự quốc tế không gian mạng sẽ bị đảo lộn và hỗn loạn; quyền và lợi ích của các bên tham gia trong không gian mạng sẽ không được bảo đảm.
Các quốc gia có chủ quyền là những chủ thể chính trong việc thực hiện các hoạt động và duy trì trật tự trong không gian mạng. Theo các học giả Trung Quốc, để tạo điều kiện thuận lợi cho quản trị internet toàn cầu công bằng và bình đẳng hơn cũng như xây dựng một cộng đồng chung trong không gian mạng vì lợi ích chung của nhân loại, cộng đồng quốc tế cần tuân thủ và thực hành khái niệm chủ quyền trong không gian mạng trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc tham vấn bình đẳng, gạt bỏ khác biệt và tìm kiếm điểm chung tối đa.
Song, cũng có quan điểm cho rằng, chủ quyền không gian mạng chỉ có thể đạt được bằng việc “hy sinh” hầu hết những gì khiến internet trở nên có giá trị và điều này không dễ thực hiện, bởi vì có những tên miền internet không có chủ quyền; các giao thức internet tạo ra một hàng hóa chung toàn cầu (mã nguồn mở - không duy nhất và không độc quyền) và một không gian ảo phi lãnh thổ; không có độc quyền về việc sử dụng vũ lực hợp pháp trong không gian mạng.
Ngoài ra, giới học giả cũng đề cập đến thuật ngữ “chủ quyền số” và “chủ quyền dữ liệu” trong thời gian gần đây. Theo đó, chủ quyền số là một sự sắp xếp mở, hoan nghênh các chủ thể khác tham gia sử dụng một khuôn khổ dựa trên các luật lệ. Hơn nữa, sự khác biệt cơ bản giữa chủ quyền không gian mạng và chủ quyền số là đối tượng điều chỉnh của chủ quyền không gian mạng là lợi ích quốc gia; đối tượng điều chỉnh của chủ quyền số là lợi ích kinh tế, kinh doanh và viễn thông. Chủ quyền dữ liệu là quản lý thông tin theo cách thống nhất với luật pháp, thực tiễn và tập quán của quốc gia, dân tộc - nơi dữ liệu được lưu trữ. Theo đó, dữ liệu có thể bị cấm chia sẻ ở quốc gia này theo luật pháp nước đó, nhưng lại hoàn toàn hợp pháp khi chia sẻ ở quốc gia khác.
Quân đội Mỹ tăng cường quan tâm đến lĩnh vực không gian mạng, thành lập các đơn vị đặc biệt có nhiệm vụ bảo vệ và nghiên cứu các hình thức chiến tranh mạng
Từ góc độ thực tiễn, ở cấp độ toàn cầu, Tuyên bố năm 2003 về các nguyên tắc của Hội nghị thượng đỉnh thế giới về xã hội thông tin (WSIS) nêu rõ thẩm quyền chính sách đối với các vấn đề chính sách công liên quan đến internet là quyền chủ quyền của các quốc gia. Báo cáo của Nhóm chuyên gia chính phủ Liên hợp quốc (UNGGE)(2) năm 2013 và năm 2015 nhấn mạnh, chủ quyền của nhà nước và các chuẩn mực, luật lệ quốc tế bắt nguồn từ chủ quyền áp dụng cho việc nhà nước tiến hành các hoạt động liên quan đến công nghệ thông tin - truyền thông; nguyên tắc chủ quyền là cơ sở để tăng cường bảo mật trong việc sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông của các quốc gia. Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) năm 2015 khẳng định luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc, có thể áp dụng đối với hành vi của nhà nước trong việc sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông và cam kết với quan điểm rằng tất cả các quốc gia phải tuân thủ những chuẩn mực về hành vi của nhà nước có trách nhiệm trong sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông. Tuyên bố Goa của Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) năm 2016 tiếp tục nhấn mạnh đến việc sử dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông thông qua hợp tác quốc tế và khu vực, trên cơ sở các chuẩn mực cũng như nguyên tắc được chấp nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế, bao gồm cả Hiến chương Liên hợp quốc về vấn đề độc lập chính trị, toàn vẹn lãnh thổ và bình đẳng chủ quyền của các quốc gia...
Báo cáo của UNGGE năm 2021 cũng xác nhận lại các kết luận trong Báo cáo của UNGGE năm 2015, rằng chủ quyền quốc gia và các chuẩn mực, nguyên tắc quốc tế xuất phát từ chủ quyền áp dụng cho hành vi của các quốc gia có hoạt động liên quan đến công nghệ thông tin - truyền thông và quyền tài phán của họ đối với kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông trong lãnh thổ của họ, đồng thời khẳng định hiện có các quy định của luật pháp quốc tế được áp dụng cho những hoạt động liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông của các quốc gia. Về trách nhiệm hành xử của các quốc gia, Báo cáo của UNGGE năm 2021 tái khẳng định, các quốc gia không được sử dụng hình thức ủy nhiệm để thực hiện các hành vi trái pháp luật trên phạm vi quốc tế thông qua sử dụng công nghệ thông tin - truyền thông; cần bảo đảm lãnh thổ quốc gia không bị các thế lực bên ngoài lợi dụng để thực hiện các hành vi đó. Tuy nhiên, Báo cáo chưa khẳng định rõ chủ quyền trong không gian mạng giống như một quy tắc ràng buộc.
Báo cáo của Nhóm công tác mở về an ninh mạng (OEWG) của Liên hợp quốc năm 2021 tuy không đề cập trực tiếp đến vấn đề chủ quyền không gian mạng, song bản báo cáo tóm tắt của Chủ tịch OEWG có nêu quan điểm của các nước đối với việc áp dụng một số nguyên tắc cụ thể của luật pháp quốc tế về chủ quyền quốc gia, bình đẳng chủ quyền đối với việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy môi trường công nghệ thông tin - truyền thông hòa bình, dễ tiếp cận, an toàn, ổn định và mở rộng... Bên cạnh đó, một số quốc gia trong thời gian qua cũng bày tỏ quan điểm ủng hộ cách tiếp cận áp dụng chủ quyền trong luật quốc tế đối với các hoạt động mạng.
Ở cấp độ khu vực, Liên minh châu Âu (EU) tiếp cận vấn đề chủ quyền không gian mạng trên cơ sở đưa ra khái niệm “chủ quyền công nghệ/chủ quyền số”, trong đó nhấn mạnh cần tập trung bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền kiểm soát dữ liệu của công dân EU trên lãnh thổ các quốc gia EU, trong bối cảnh EU cho rằng vấn đề kiểm soát dữ liệu cá nhân của các công dân EU, cũng như việc các công ty công nghệ của EU và các quốc gia EU thực hiện nội luật của mình, đang bị đe đọa nghiêm trọng bởi các công ty công nghệ bên ngoài EU. Dịch bệnh COVID-19 được xem là một minh chứng rõ nét, đang đặt ra những quan ngại về việc EU phụ thuộc vào các công cụ phân tích dữ liệu được phát triển bên ngoài EU có thể được sử dụng để theo dõi người dân EU, đánh giá nguy cơ mắc vi-rút...
Ngoài ra, hầu hết các nền tảng trực tuyến thuộc các công ty nước ngoài cũng được cho là đang xâm phạm chủ quyền các quốc gia thành viên EU trong các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, bảo vệ dữ liệu, thuế và giao thông, thương mại điện tử... Năm 2018, EU ban hành Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) và đề ra Chiến lược thúc đẩy các tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu quốc tế. EU hiện cũng đưa các điều khoản trong GDPR vào nội luật và các thể chế đa phương đang cân nhắc việc lựa chọn GDPR làm tiêu chuẩn toàn cầu trong các hoạt động của mình. Trước đó, năm 2001, EU đã thông qua Công ước Bu-đa-pét về tội phạm mạng - điều ước quốc tế duy nhất có hiệu quả nhằm thiết lập khuôn khổ pháp lý chung cho công tác phòng, chống tội phạm mạng.
Cao ủy châu Âu phụ trách về các vấn đề số từng khẳng định, chủ quyền số là một trong những mục tiêu quan trọng cho chính sách số của châu Âu. Năm 2017, tài liệu “Hướng dẫn Tallinn 2.0” về luật pháp quốc tế áp dụng cho hoạt động không gian mạng của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), đã đưa ra cách thức áp dụng luật pháp quốc tế cho các hoạt động mạng trong thời bình và trong các cuộc xung đột chiến tranh, cung cấp phân tích pháp lý về những sự cố mạng phổ biến mà các quốc gia phải đối mặt hằng ngày và những sự cố này rơi vào ngưỡng dưới của sử dụng vũ lực hoặc xung đột vũ trang. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hiện chưa có một điều ước quốc tế chính thức nào về an ninh mạng hay văn bản có đề cập đến chủ quyền không gian mạng ngoài khuôn khổ Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF).
Ở cấp độ quốc gia, trong năm 2011 và 2015, Bộ Quy tắc ứng xử quốc tế về an ninh thông tin do Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác đưa ra đã tái khẳng định thẩm quyền chính sách đối với các vấn đề chính sách công liên quan đến internet là quyền chủ quyền của các quốc gia. Luật An ninh mạng năm 2016 của Trung Quốc tập trung vào các nội dung quan trọng, như bảo vệ chủ quyền không gian mạng quốc gia, bảo vệ kết cấu hạ tầng thiết yếu, dữ liệu và bảo vệ thông tin cá nhân. Việc địa phương hóa dữ liệu được coi là thành tố quan trọng góp phần bảo vệ và gìn giữ chủ quyền không gian mạng của Trung Quốc. Những năm gần đây, Trung Quốc chủ động tham gia và thúc đẩy vai trò lớn hơn trong quản trị internet toàn cầu, kêu gọi các quốc gia tôn trọng “chủ quyền không gian mạng” của Trung Quốc với ý tưởng các quốc gia nên tự do kiểm soát và kiểm duyệt hạ tầng internet của mình nếu thấy phù hợp(3).
Đối với Nga, Học thuyết an ninh thông tin mới của Nga được Tổng thống Nga Vla-đi-mia Pu-tin ban hành vào ngày 5-12-2016, nhấn mạnh việc bảo vệ chủ quyền của Nga trong không gian thông tin thông qua chính sách độc lập nhằm theo đuổi các lợi ích quốc gia của Nga; bảo vệ chủ quyền an ninh thông tin của Nga trước các mối đe dọa ngày càng gia tăng trên internet. Tháng 5-2019, Tổng thống V. Pu-tin ban hành Luật Chủ quyền internet (có hiệu lực kể từ ngày 1-11-2019), nhằm bảo đảm hệ thống internet nội bộ của Nga hoạt động ổn định cả trong trường hợp nước Nga bị ngắt kết nối với kết cấu hạ tầng internet toàn cầu do bị tấn công mạng.
Mỹ mặc dù không ủng hộ về chủ quyền không gian mạng, tuy nhiên các nội dung trong các văn bản pháp lý như Luật An ninh mạng (năm 2015), Luật Yêu nước, các chiến lược an ninh quốc gia, chính sách của nước này đều đề cập đến nguy cơ/mối đe dọa đến an ninh quốc gia từ an ninh mạng. Đáng chú ý, Luật Yêu nước của Mỹ có những quy định về bảo vệ dữ liệu, yêu cầu truy cập dữ liệu ở trong và ngoài nước Mỹ - được đánh giá tương tự nội dung về chủ quyền dữ liệu.
Một số các quốc gia khác, như Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ... cũng ban hành các văn bản đề cập đến chủ quyền số (Pháp), chủ quyền dữ liệu (Ấn Độ), hay coi không gian mạng là vấn đề thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia khu vực, gắn bó chặt chẽ với các chủ quyền về đất liền, biển, đảo, trên không và vũ trụ (Nhật Bản).
Một số vấn đề đặt ra
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau, song có thể thấy vấn đề chủ quyền không gian mạng đã và đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều nước trên thế giới. Nội dung này được cho là sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết thách thức không chỉ đối với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế mà còn đối với các nguyên tắc chủ quyền quốc gia cũng như việc thiết lập trật tự quốc tế trên không gian mạng. Thời gian tới, thế giới được dự báo tiếp tục phải đối mặt với một số vấn đề đặt ra từ không gian mạng, an ninh mạng nói chung và chủ quyền không gian mạng nói riêng, cụ thể như:
Về chính trị - an ninh - pháp lý:
Thứ nhất, nguy cơ gia tăng bất đồng, tranh chấp và thậm chí là xung đột giữa các nước lớn trong áp dụng chủ quyền không gian mạng có thể dẫn đến sự thay đổi trật tự thế giới. Việc thiếu các cơ chế phù hợp để bổ trợ cho khái niệm chủ quyền không gian mạng ở tầm quốc tế đã khiến các quốc gia gia tăng chạy đua và đưa ra nhiều định nghĩa mở rộng về khái niệm này để lập luận cho các hành động về gián điệp mạng, quân sự mạng... Thực tế cho thấy, các nguy cơ từ chủ thể phi nhà nước chiếm quyền kiểm soát máy chủ của một quốc gia gây gián đoạn các trang điện tử quan trọng của quốc gia khác hay việc sử dụng “botnet” tấn công mạng vào hệ thống kết cấu hạ tầng mạng quan trọng của các trang mạng lớn, như Twitter, Netflix... sẽ tác động không nhỏ đến mối quan hệ giữa các quốc gia, thậm chí có thể dẫn đến những cuộc tấn công mạng...
Bên cạnh đó là những nguy cơ đối với an ninh quốc gia xung quanh việc một số quốc gia triển khai chủ quyền dữ liệu tại một số nơi trên thế giới, cũng như năng lực, trình độ của các quốc gia trong việc bảo đảm an ninh mạng và không gian mạng còn có sự chênh lệch. Nỗ lực của các quốc gia trong việc ứng phó, phòng, chống các cuộc tấn công mạng luôn gặp khó khăn do nhiều yếu tố: hạn chế về năng lực, kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin; quá trình ban hành các văn bản pháp luật quy định về biện pháp, chế tài thường mất khá nhiều thời gian, vì thế, khi các văn bản, chế tài được ban hành đã trở nên lạc hậu so với những thủ đoạn mới của tin tặc; thiếu chặt chẽ trong sự điều phối giữa các cơ quan chức năng có liên quan.
Thứ hai, các giới hạn và biên giới trong chủ quyền không gian mạng, các quy định, luật lệ về chủ quyền không gian mạng mà các quốc gia trên thế giới đưa ra trong thời gian qua cần có thêm thời gian kiểm chứng. Hơn nữa, cách tiếp cận và cách thức hợp tác trong không gian mạng chưa có sự thống nhất chung. Hiện nay, nhiều nước kêu gọi sự gia nhập rộng rãi hơn vào cơ chế của Công ước Bu-đa-pét, tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về Công ước này. Một số nước bày tỏ quan ngại do không được tham gia quá trình đàm phán Công ước nên lợi ích của quốc gia họ không được phản ánh rõ ràng trong Công ước, vì thế cần phải xây dựng một công ước mới mang tính phổ quát hơn.
Thứ ba, việc diễn giải và áp dụng luật pháp quốc tế trong không gian mạng còn thiếu sự đồng thuận. Các tổ chức quốc tế, bao gồm Liên hợp quốc và NATO, đã thông qua những văn kiện khuyến nghị về những nguyên tắc của luật pháp quốc tế áp dụng trong không gian mạng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, những văn bản đó mới chỉ đưa ra được những nguyên tắc chung, việc áp dụng cụ thể các nguyên tắc đó còn nhiều điểm chưa rõ ràng.
Về kinh tế - xã hội:
Thứ nhất, nguy cơ về sự “vỡ vụn” của internet khi các quốc gia thiết lập chủ quyền trong không gian mạng. Vấn đề quản trị internet sẽ gặp không ít thách thức liên quan đến phát sinh tranh cãi về tầng nấc quản trị internet khi ngày càng có sự tham gia của nhiều chủ thể lợi ích.
Thứ hai, thách thức liên quan đến việc làm rõ những khác biệt trong áp dụng chủ quyền không gian mạng và vi phạm các quyền con người, trong đó có quyền riêng tư. Bởi thực tế hiện nay, có không ít quan ngại về phạm vi, giới hạn, thậm chí là vi phạm trong việc áp dụng, vận dụng vào thực tế các nội dung liên quan đến chủ quyền không gian mạng đối với quyền được thể hiện quan điểm trên internet của người dân.
Thứ ba, các thách thức về công nghệ, kết cấu hạ tầng số, như tính không tương thích, trong hợp tác về các tiêu chuẩn công nghệ, quy định, quản lý và hợp tác quốc tế xuyên biên giới cũng như sự tương tác và kết nối của internet toàn cầu; tranh cãi liên quan đến những thiệt hại có thể có về kinh tế khi thực hiện kiểm soát công nghệ, kỹ thuật, dữ liệu...; làm sao để có thể giảm sự phụ thuộc vào các phần mềm, thiết bị viễn thông bên ngoài.
P.TT
(Nguồn: TCCS)
_______________(1) Xem: Nguyễn Văn Tỵ: “Nâng cao ý thức làm chủ và bảo vệ không gian mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân”.
(2) UNGGE là nhóm chuyên gia chính phủ của Liên hợp quốc do Mỹ đề xuất thành lập với sự tham gia của 25 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, được bầu theo nguyên tắc luân phiên, tập trung thảo luận các vấn đề về không gian mạng và an ninh mạng
(3) Phát biểu của Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hội nghị thế giới về internet năm 2015.