Luôn cần một tinh thần Nam Bộ kháng chiến cho hôm nay
- Được đăng: Thứ hai, 10 Tháng 10 2022 08:28
- Lượt xem: 797
(TUAG)- Chiều ngày 02/9/1945, trong rừng cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu mừng độc lập ở Sài Gòn, có một khẩu hiệu chỉ 5 chữ ngắn gọn “Độc lập hay là chết” viết bằng 5 thứ tiếng (Việt-Nga-Anh-Pháp-Trung). Chỉ 21 ngày sau đó (23/9), 5 chữ ấy được lặp lại và giải thích đầy đủ trong lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, mở ra thời kỳ mới với ý chí, khí phách hào hùng cho cả dân tộc.
Thời ấy, từ Hà Nội vào đến Sài Gòn, những lớp thanh niên hăng hái gia nhập Thanh niên Cứu quốc, Thanh niên Tiền phong đi giành chính quyền, “tự ta giải phóng cho ta”. Chỉ 15 ngày “rũ bùn đứng dậy”, 20 triệu dân nô lệ trên cả ba xứ Bắc-Trung-Nam trở thành công dân của một nước cộng hòa, họ nhanh chóng nhận ra trách nhiệm phải giữ gìn nền tự do và độc lập.
Ở buổi lễ mừng độc lập đầu tiên do Chủ tịch nước chọn vào chiều Chủ nhật ngày 02/9/1945, để có nhiều người được nghỉ và cùng lắng nghe bản Tuyên ngôn Độc lập; bởi lần đầu tiên có lời thề của toàn thể dân tộc “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ gìn nền tự do và độc lập”. Và trong ngày trọng đại ấy ở Sài Gòn, có 47 công dân của nền cộng hòa non trẻ đã đổ máu cho nền độc lập.
Trong thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Hàng chục vạn giặc ngoài, kéo theo bao lớp thù trong, cấu kết với nhau và lăm le muốn bóp chết nền cộng hòa Việt Nam còn trong trứng nước. Giặc đói, giặc dốt hoành hành đời sống 20 triệu dân vừa giành được tự do; “Quỹ độc lập” quyên góp bằng “Tuần lễ vàng”; chiếc áo len của lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc khi đi tìm đường cứu nước, được đem đấu giá gom góp thành phong trào “Mùa đông binh sĩ”.
Bên trong Hội nghị Cây Mai ở Sài Gòn (ngày 23/9), Xứ ủy và chính quyền nhân dân phát lệnh cho toàn Nam Bộ đứng lên với lời kêu gọi khẩn thiết “Độc lập hay là chết”. Bên ngoài, thanh niên xung phong công đoàn đợi lệnh để in thành truyền đơn đạp xe rải khắp thành phố. Lần đầu tiên các chiến tuyến được dựng lên nối 4 cây cầu (cầu Thị Nghè, cầu Tham Lương, cầu Bình Điền, cầu Chữ Y) ở 4 hướng, hình thành thế trận “Trong đánh ngoài vây” quyết giữ nền độc lập.
Đài Tiếng nói Việt Nam từ Thủ đô Hà Nội truyền đi lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đồng bào Nam Bộ làm theo tinh thần của người cách mạng Pháp “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Cả nước hưởng ứng Nam Bộ kháng chiến, những đội quân “Nam Tiến” từ miền Bắc, miền Trung rầm rập vào Nam tiếp sức chiến đấu bảo vệ tự do độc lập.

Thời ấy, biểu tượng của ý chí vì tự do độc lập là hình ảnh bình dị những công dân của nền dân chủ cộng hòa “Ta đem thân ta liều cho nước; Ta đem thân ta đền ơn trước”. Ở Nam Bộ là những lớp người “chân đi không”, “nóp với giáo mang ngang vai”, kết thành bức “Thành đồng Tổ quốc”. Giữa Thủ đô Hà Nội người chiến sĩ tự vệ ôm bom ba càng tự tạo, dũng cảm lao vào xe tăng địch với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ hậu phương, những người thợ may dệt áo trấn thủ gửi hơi ấm lòng dân cho người cầm súng ngoài mặt trận. Trên chiến khu, doanh nhân Nguyễn Sơn Hà năm lần bảy lượt thử nghiệm cho bằng được chiếc áo mưa đa dụng, giúp bộ đội dãi dầu mưa nắng gió sương.
Sài Gòn và cả Nam Bộ đã đứng lên thực hiện lời thề độc lập, đồng thời mở đầu cho 30 năm đấu tranh liên tục không ngưng nghỉ chống ngoại xâm. Nơi đi trước về sau trong chống thực dân phương Tây xâm chiếm thuộc địa nay lại một lần nữa đi trước về sau trong chiến đấu vì độc lập tự do, thống nhất non sông.
Thời “sơn hà nguy biến” nay đã lùi vào lịch sử làm bài học, nhưng tiếng hát “Mùa Thu rồi ngày 23” vẫn vang lên truyền từ đời này sang đời khác, tinh thần của cuộc kháng chiến ấy vẫn lan tỏa mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Gắn kinh nghiệm của những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến vào tình hình mới hiện nay, cần chú trọng khơi dậy, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và năng lực sáng tạo của quần chúng. Đây không chỉ là sự kế thừa những bài học lịch sử quý báu mà còn là “chìa khóa” quan trọng để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
76 năm qua đi nhưng tinh thần chiến đấu quật cường của ngày Nam Bộ kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị là động lực to lớn cổ vũ toàn dân tộc đồng tâm nhất trí, năng động, sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức. Từ Nam Bộ kháng chiến, chúng ta càng thấm thía hơn nữa lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do độc lập ấy”. Chúng ta ngày hôm nay luôn cần một tinh thần Nam bộ kháng chiến để mãi thắp sáng con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu đẹp dưới lá cờ vẻ vang của Đảng./.
Thời ấy, từ Hà Nội vào đến Sài Gòn, những lớp thanh niên hăng hái gia nhập Thanh niên Cứu quốc, Thanh niên Tiền phong đi giành chính quyền, “tự ta giải phóng cho ta”. Chỉ 15 ngày “rũ bùn đứng dậy”, 20 triệu dân nô lệ trên cả ba xứ Bắc-Trung-Nam trở thành công dân của một nước cộng hòa, họ nhanh chóng nhận ra trách nhiệm phải giữ gìn nền tự do và độc lập.
Ở buổi lễ mừng độc lập đầu tiên do Chủ tịch nước chọn vào chiều Chủ nhật ngày 02/9/1945, để có nhiều người được nghỉ và cùng lắng nghe bản Tuyên ngôn Độc lập; bởi lần đầu tiên có lời thề của toàn thể dân tộc “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ gìn nền tự do và độc lập”. Và trong ngày trọng đại ấy ở Sài Gòn, có 47 công dân của nền cộng hòa non trẻ đã đổ máu cho nền độc lập.
Trong thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Hàng chục vạn giặc ngoài, kéo theo bao lớp thù trong, cấu kết với nhau và lăm le muốn bóp chết nền cộng hòa Việt Nam còn trong trứng nước. Giặc đói, giặc dốt hoành hành đời sống 20 triệu dân vừa giành được tự do; “Quỹ độc lập” quyên góp bằng “Tuần lễ vàng”; chiếc áo len của lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc khi đi tìm đường cứu nước, được đem đấu giá gom góp thành phong trào “Mùa đông binh sĩ”.
Bên trong Hội nghị Cây Mai ở Sài Gòn (ngày 23/9), Xứ ủy và chính quyền nhân dân phát lệnh cho toàn Nam Bộ đứng lên với lời kêu gọi khẩn thiết “Độc lập hay là chết”. Bên ngoài, thanh niên xung phong công đoàn đợi lệnh để in thành truyền đơn đạp xe rải khắp thành phố. Lần đầu tiên các chiến tuyến được dựng lên nối 4 cây cầu (cầu Thị Nghè, cầu Tham Lương, cầu Bình Điền, cầu Chữ Y) ở 4 hướng, hình thành thế trận “Trong đánh ngoài vây” quyết giữ nền độc lập.
Đài Tiếng nói Việt Nam từ Thủ đô Hà Nội truyền đi lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đồng bào Nam Bộ làm theo tinh thần của người cách mạng Pháp “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Cả nước hưởng ứng Nam Bộ kháng chiến, những đội quân “Nam Tiến” từ miền Bắc, miền Trung rầm rập vào Nam tiếp sức chiến đấu bảo vệ tự do độc lập.

Thời ấy, biểu tượng của ý chí vì tự do độc lập là hình ảnh bình dị những công dân của nền dân chủ cộng hòa “Ta đem thân ta liều cho nước; Ta đem thân ta đền ơn trước”. Ở Nam Bộ là những lớp người “chân đi không”, “nóp với giáo mang ngang vai”, kết thành bức “Thành đồng Tổ quốc”. Giữa Thủ đô Hà Nội người chiến sĩ tự vệ ôm bom ba càng tự tạo, dũng cảm lao vào xe tăng địch với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ hậu phương, những người thợ may dệt áo trấn thủ gửi hơi ấm lòng dân cho người cầm súng ngoài mặt trận. Trên chiến khu, doanh nhân Nguyễn Sơn Hà năm lần bảy lượt thử nghiệm cho bằng được chiếc áo mưa đa dụng, giúp bộ đội dãi dầu mưa nắng gió sương.
Sài Gòn và cả Nam Bộ đã đứng lên thực hiện lời thề độc lập, đồng thời mở đầu cho 30 năm đấu tranh liên tục không ngưng nghỉ chống ngoại xâm. Nơi đi trước về sau trong chống thực dân phương Tây xâm chiếm thuộc địa nay lại một lần nữa đi trước về sau trong chiến đấu vì độc lập tự do, thống nhất non sông.
Thời “sơn hà nguy biến” nay đã lùi vào lịch sử làm bài học, nhưng tiếng hát “Mùa Thu rồi ngày 23” vẫn vang lên truyền từ đời này sang đời khác, tinh thần của cuộc kháng chiến ấy vẫn lan tỏa mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Gắn kinh nghiệm của những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến vào tình hình mới hiện nay, cần chú trọng khơi dậy, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và năng lực sáng tạo của quần chúng. Đây không chỉ là sự kế thừa những bài học lịch sử quý báu mà còn là “chìa khóa” quan trọng để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
76 năm qua đi nhưng tinh thần chiến đấu quật cường của ngày Nam Bộ kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị là động lực to lớn cổ vũ toàn dân tộc đồng tâm nhất trí, năng động, sáng tạo, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức. Từ Nam Bộ kháng chiến, chúng ta càng thấm thía hơn nữa lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do độc lập ấy”. Chúng ta ngày hôm nay luôn cần một tinh thần Nam bộ kháng chiến để mãi thắp sáng con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu đẹp dưới lá cờ vẻ vang của Đảng./.
Ngọc Hân