Truy cập hiện tại

Đang có 195 khách và không thành viên đang online

Công tác Tuyên truyền và hoạt động Tuyên truyền miệng

- Khái niệm chung về công tác tuyên truyền; vị trí, vai trò, nội dung và những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng;
- Hoạt động tuyên truyền miệng là gì; chức năng, nhiệm vụ của báo cáo viên và phương châm của hoạt động tuyên truyền miệng.
- Vai trò của Ban tuyên giáo đối với công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng, liên hệ với tỉnh ta.

I- Khái niệm chung về công tác tuyên truyền; vị trí, vai trò, nội dung và những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng.
1- Khái niệm:
“Tuyên truyền” theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu do chủ thể tuyên truyền đặt ra.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”.
2- Vị trí, vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng:
2.1- Vị trí công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng:
-Tuyên truyền là một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng. Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin khẳng định công tác tư tưởng có ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động (có nhiều người gọi là ba bộ phận). Ba hình thái đó tương ứng với các quá trình tư tưởng gồm: sản xuất ra hệ tư tưởng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng; cổ vũ, động viên quần chúng thực hiện.
- Công tác tuyên truyền là hoạt động tiếp nối công tác lý luận, nhằm phổ biến, truyền bá các nguyên lý lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách vào quần chúng. Mục đích cao nhất của tuyên truyền là làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị thống trị trong xã hội.
2.2- Vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng:
- Tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tuyên truyền gắn liền với cổ động, nên tuyên truyền còn là sự cổ vũ, động viên, thúc đẩy quần chúng hăng hái tham gia các phong trào, biến nhận thức, niềm tin thành nhiệt huyết của quảng đại quần chúng, thành hành động cách mạng.
- Công tác tuyên truyền uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng con người mới, cuộc sống mới.
- Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức, lối sống, lẽ sống; bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
2.3- Những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền.
Cùng với việc thực hiện các nguyên tắc của công tác tư tưởng, trong công tác tuyên truyền cần tuân theo các nguyên tắc sau:
-  Tính đảng, tính giai cấp: Tuyên truyền vô sản phải phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính đảng, tính giai cấp đòi hỏi khi trình bày, giải thích mọi hiện tượng và sự việc xảy ra trong thực tiễn đều phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, trên lợi ích của giai cấp và của dân tộc.
        -  Tính khoa học và thực tiễn: Tính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên truyền phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc, hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền
 - Tính khoa học và thực tiễn: Tính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên truyền phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc, hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền- Phản ánh đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật.
- Tính chiến đấu: Tính chiến đấu là bản chất của công tác tuyên truyền chính trị, thể hiện sự nhạy bén và bản lĩnh chính trị. Trong mỗi sự việc và hiện tượng cần phân biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được cái tốt cần biểu dương, cái xấu cần kịp thời phê phán
- Tính phổ thông, đại chúng: Nội dung tuyên truyền phải gắn chặt với cuộc sống thực tiễn phong phú của đại đa số quần chúng nhân dân, giải đáp những vấn đề nóng hổi mà cuộc sống đang đặt ra và quần chúng nhân dân đang đòi hỏi.
2.4-  Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền:
-  Tuyên truyền chính trị: tuyên truyền chính trị là nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền. Tuyên truyền chính trị tập trung vào việc phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, bao gồm:
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của Đảng qua các hoạt động kỷ niệm, các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa phương.
- Tuyên truyền kinh tế: tuyên truyền kinh tế nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện nay. Nội dung chủ yếu của tuyên truyền kinh tế là:
+ Tuyên truyền về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, các chính sách, kế hoạch, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về những thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển của đất nước, địa phương, những thuận lợi và khó khăn, những bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng thời kỳ.
 - Tuyên truyền văn hóa: tuyên truyền về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần của xã hội, gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng đảng
-  Tuyên truyền quốc phòng, an ninh: tuyên truyền quốc phòng, an ninh là trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung chủ yếu là:
+ Tuyên truyền về đường lối, quan điểm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Tuyên truyền về những truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, tự hào về những chiến công hiển hách trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập.
+ Tuyên truyền về những chủ trương, giải pháp lớn xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
+ Tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nghĩa vụ của công dân tham gia quân đội, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng…
-  Tuyên truyền đối ngoại: trong thời đại toàn cầu hóa, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tuyên truyền đối ngoại có vai trò quan trọng.
-  Đấu tranh chống các quan điểm sai trái: trong điều kiện phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, tuyên truyền để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết.
II- Công tuyên truyền miệng, phương châm của hoạt động tuyên truyền miệng; Nhiệm vụ của báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng.
1- Khái niệm tuyên truyền miệng:
- Tuyên truyền miệng là phương thức tuyên truyền được tiến hành chủ yếu bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe.
Các văn bản của Đảng xác định chức năng của công tác tuyên truyền miệng gồm:
- Chức năng phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng: cùng với các hình thức và phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền miệng góp phần quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.
- Chức năng thông tin và định hướng thông tin: tuyên truyền miệng là một kênh thông tin chính thống giữ vai trò chủ yếu trong việc thông báo, quán triệt các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế quan trọng mà dư luận đang quan tâm, qua đó định hướng thông tin cho người nghe.
- Chức năng giáo dục, cổ vũ, động viên quần chúng đi tới hành động: tuyên truyền miệng có mục tiêu rất cơ bản là góp phần giáo dục và xây dựng những chuẩn mực về con người mới, nền văn hoá mới, cổ vũ và động viên các nhân tố mới trong xã hội. Tuyên truyền miệng có khả năng to lớn và có hiệu quả trong chức năng cổ vũ, động viên, lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua.
-  Chức năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
+ Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị của Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh chống các âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
+ Tuyên truyền miệng là công cụ hữu hiệu để phê phán các nhận thức tư tưởng lạc hậu, lệch lạc, các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội
2- Phương châm tiến hành công tác tuyên truyền miệng
Các văn bản của Đảng đã xác định phương châm công tác tuyên truyền hiện nay là:
- Toàn Đảng phải làm công tác tuyên truyền: Thông báo 71-TB/TW ngày 7-6-1997 của Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII quy định: "Toàn Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Trung ương và cấp ủy viên các cấp phải căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà trực tiếp tuyên truyền cho quần chúng...".
- Chủ động và tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị:
+ Nội dung tuyên truyền phải gắn với nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
+ Người cán bộ tuyên truyền miệng phải đi trước một bước, dự báo sớm được tình hình, nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội để nắm được yêu cầu của công tác tuyên truyền và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, phục vụ tốt nhất cho hoạt động tuyên truyền.
- Thường xuyên, liên tục, nhạy bén, kịp thời, bám sát thời cuộc, bám sát tình hình thực tiễn:
+ Trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động nhanh chóng và phức tạp, tại các địa phương và cơ sở xuất hiện nhiều vấn đề mới nảy sinh, được mọi người chú ý theo dõi và quan tâm, thực hiện tuyên truyền miệng phải được tiến hành thường xuyên và bắt kịp với tình hình thời sự nóng bỏng của cuộc sống.
+ Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin tuyên truyền miệng không được chậm trễ, đi sau các sự kiện thời sự chính trị nóng bỏng, nhưng không được hấp tấp, vội vàng, nông cạn, thậm chí có khi sai lệch, thiếu sự phân tích, bình luận sâu sắc và trái với sự chỉ đạo, định hướng của các cơ quan có chức năng.
- Tuyên truyền phải hết sức cụ thể, thiết thực:
+ Tuyên truyền miệng luôn xác định trước được đối tượng tuyên truyền, vì vậy phải cụ thể thiết thực, đáp ứng yêu cầu của người nghe.
+ Nội dung tuyên truyền phải có căn cứ số liệu, tư liệu, sự kiện, dẫn chứng cụ thể, phong phú, sinh động, lập luận rõ ràng; khắc phục lối tuyên truyền đại khái, quan liêu, xa rời thực tế.
- Đưa thông tin, nhất là thông tin định hướng, nhanh chóng và kịp thời xuống cơ sở, phục vụ tốt cơ sở: củng cố và xây dựng cho được đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên có hoạt động thực sự từ Trung ương tới địa phương cơ sở, đặc biệt là đến các vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo.
3- Nhiệm vụ của báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng.
3.1- Khái niệm báo cáo viên:
Báo cáo viên là lực lượng quan trọng nòng cốt, chủ lực của công tác tuyên truyền miệng, được cấp ủy lựa chọn và công nhận theo những tiêu chuẩn nhất định do Ban Tuyên giáo của cấp ủy quản lý và chỉ đạo.
Báo cáo viên là chức danh để chỉ những người làm công tác tuyên truyền miệng, Báo cáo viên được coi là người phát ngôn, thông tin chính của Đảng và cơ quan Nhà nước.
Từ quan niệm trên cho thấy:
- Báo cáo viên là bộ phận quan trọng, nòng cốt trong công tác tuyên truyền miệng.
- Báo cáo viên do cấp ủy lựa chọn và quyết định, được tổ chức cả hệ thống từ Trung ương đến địa phương cơ sở.
- Báo cáo viên do là người phát ngôn chính thức của Đảng và Nhà nước nên do Ban tuyên giáo của cấp ủy quản lý và chỉ đạo.
3.2-  Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên.
Ngày 10.11.2011, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ra quyết định số 518 về việc ban hành quy chế hoạt động báo cáo viên của Đảng, xác định rõ nhiệm vụ báo cáo viên:
- Trực tiếp tuyên truyền, phổ biến những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình thời sự trong nước và thế giới; những nhân tố mới, những điển hình trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc XHCN đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Nắm tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân; định hướng tư tưởng và hướng dẫn dư luận xã hội, góp phần xây dựng, củng cố sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng và sự đồng thuận xã hội.
- Đối thoại với người nghe, kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch.
- Tuyên truyền các nội dung thông tin theo sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, sự phân công của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp trên.
III- Vai trò của Ban tuyên giáo đối với công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng.
Ban Tuyên giáo là cơ quan tham mưu giúp cấp ủy tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. Nội dung bao gồm:
1- Tổ chức, xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên tuyền miệng
- Hệ thống báo cáo viên được tổ chức ở tất cả các cấp từ Trung ương đến các tỉnh, thành, huyện, quận, xã, phường và đảng bộ cơ sở; ở tất cả các tổ chức, ban ngành đoàn thể, các đảng ủy khối, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an), trong các hội quần chúng.
- Ban Tuyên giáo các cấp có trách nhiệm giúp cấp ủy lựa chọn những cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và trình độ nhất là có khả năng truyền đạt tham gia là báo cáo viên.
- Ban Tuyên giáo các cấp đề xuất để cấp uỷ ra quyết định công nhận báo cáo viên. Báo cáo viên Trung ương do Ban Tuyên giáo Trung ương được Bộ Chính trị ủy quyền ra quyết định công nhận; báo cáo viên cấp tỉnh, huyện và cơ sở do cấp ủy cùng cấp ra quyết định công nhận.
- Tham mưu cho cấp ủy xây dựng quy chế hoạt động báo cáo viên, xác định nội dung, chương trình kế hoạch hoạt động hàng năm, 6 tháng và từng tháng để báo cáo với cấp ủy.
2 -  Quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động báo cáo viên
Ban Tuyên giáo các cấp trực tiếp giúp cấp ủy chỉ đạo và quản lý hoạt động báo cáo viên:
- Định kỳ tổ chức các hội nghị để cung cấp thông tin và định hướng tuyên truyền cho báo cáo viên, chỉ đạo tổ chức và theo dõi, kiểm tra hoạt động của đội ngũ báo cáo viên.
- Quản lý và kiểm soát nội dung thông tin của báo cáo viên đảm bảo đúng định hướng tư tưởng chính trị.
- Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tuyên tuyền miệng cho Báo cáo viên;
- Tham mưu đề xuất với cấp ủy đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ, chính sách đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên.
- Tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết, đánh giá hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng.

Nguồn BTGTW

Tiến tới đại hội đảng
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
37131276