Truy cập hiện tại

Đang có 125 khách và không thành viên đang online

Hoạt động khoa giáo

Những điều cần biết về bệnh bạch hầu

(TUAG)- Để phục vụ tốt công tác tuyên truyền phòng, chống dịch bạch hầu, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy gửi các đồng chí nội dung “Những điều cần biết về bệnh bạch hầu”.

Về bệnh bạch hầu

Bệnh Bạch hầu (Diphtheria) là bệnh truyền nhiễm nhóm B do vi khuẩn bạch hầu có tên khoa học là Corynebacterium diphtheria thuộc họ Corynebacteriaceae gây ra. Đây là tình trạng nhiễm khuẩn cấp tính tạo ra giả mạc ở tuyến hạnh nhân (amidan), hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục.

Đặc tính của bệnh bạch hầu là vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc, các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn Bạch hầu gây nên. Lịch sử bệnh bạch hầu: bệnh bạch hầu được Hippocrates miêu tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước Công Nguyên. Một số tài liệu cũng gợi ý đến sự hoành hành của bệnh bạch hầu ở Syria và Ai Cập cổ đại. Vào thế kỷ XVII có rất nhiều vụ dịch đã tàn phá gây chết người hàng loạt tại châu Âu. Ở Tây Ban Nha bệnh được biết dưới tên gọi "El garatillo" (kẻ treo cổ), còn ở Ý bệnh Bạch hầu có tên là "bệnh cổ họng". Vào thế kỷ XVIII bệnh Bạch hầu lan rộng đến các thuộc địa ở Mỹ và gây nên vụ dịch vào khoảng năm 1735. Vào thời điểm đó thường chỉ trong vòng vài tuần thì cả gia đình có người mắc bệnh đều lần lượt tử vong toàn bộ.

Dịch tễ bệnh bạch hầu

Bệnh bạch hầu lưu hành ở mọi nơi trên thế giới và đã gây nên các vụ dịch nghiêm trọng, nhất là ở trẻ em trong thời kỳ chưa có vắc xin dự phòng. Năm 1923, vắc xin giải độc tố bạch hầu ra đời và từ đó đến nay tính nghiêm trọng của bệnh dịch đã thay đổi trên toàn thế giới. Bệnh có tính mùa, thường tản phát, có thể phát triển thành dịch nhất là ở trẻ dưới 15 tuổi chưa được gây miễn dịch đầy đủ.

Theo Cục Y tế Dự phòng, khu vực Tây Thái Bình Dương ghi nhận số mắc bệnh bạch hầu hàng năm đã giảm rõ rệt do hiệu quả của việc tiêm phòng vắc xin bạch hầu cho trẻ em; từ trên 13.000 trường hợp bạch hầu mỗi năm trong những năm  đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, giảm xuống 1.130 trường hợp năm 1990 và năm 1994 còn 614 trường hợp.

Tại Việt Nam, thời kỳ chưa tiêm vắc xin bạch hầu trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt là ở các thành phố có mật độ dân cư cao, xuất hiện nhiều vào tháng 8, 9, 10 trong năm. Do thực hiện tốt việc tiêm vắc xin bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm 1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000.

Bệnh lây truyền như thế nào?

- Bệnh bạch hầu lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn Bạch hầu.

- Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn Bạch hầu.

- Thời gian ủ bệnh: từ 2 đến 5 ngày, có thể lâu hơn.

- Thời kỳ lây truyền: người bệnh đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, có thể ngay từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Thời kỳ lây truyền kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, ít khi trên 4 tuần. Điều trị kháng sinh có hiệu quả nhanh chóng sẽ chấm dứt sự lây truyền.

Tính cảm nhiễm và miễn dịch

 - Kháng thể miễn dịch với bệnh bạch hầu của mẹ truyền sang con có tác dụng bảo vệ trẻ đến 6 tháng tuổi.

- Mọi lứa tuổi đều có thể bị mắc bệnh nếu chưa có miễn dịch đặc hiệu.

- Bệnh nhân mắc bạch hầu sau khi khỏi bệnh sẽ không bị mắc lại vì cơ thể được miễn dịch lâu dài.

Triệu chứng và biến chứng

 - Người bệnh Bạch hầu có triệu chứng viêm họng, mũi và thanh quản, họng đỏ, đau khi nuốt, da xanh, mệt mỏi, nổi hạch dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ.

 - Trong vòng 2-3 ngày, giả mạc bắt đầu xuất hiện, thường có màu trắng ngà hoặc màu xám, dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Vùng niêm mạc xung quanh giả mạc bị xung huyết.

- Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em, biểu hiện tại chỗ là giả mạc thanh quản và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, liệt thần kinh sọ não, thần kinh cảm giác, thần kinh vận động ngoại biên và viêm cơ tim, có thể gây tử vong trong vòng 6-10 ngày. Tỷ lệ tử vong do bệnh là 5-10%.

Phòng bệnh

Bộ Y tế khuyến cáo người dân thực hiện tốt 05 biện pháp:

 - Đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm vắc xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu (ComBe Five hoặc DPT-VGB-Hib (SII), Td) đủ mũi tiêm và đúng lịch.

- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.

- Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.

- Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.

- Người dân trong ổ dịch cần thực hiện nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.

Lịch tiêm chủng vaccine phòng bạch hầu

Lịch tiêm chủng vaccine phòng bạch hầu trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng gồm 3 liều cách nhau ít nhất 1 tháng bắt đầu từ lúc trẻ đủ 2 tháng tuổi và 1 liều tiêm nhắc thứ tư lúc trẻ 18 tháng tuổi. Mũi tiêm nhắc là rất cần thiết vì nó giúp kéo dài hiệu quả bảo vệ của vaccine phòng bệnh bạch hầu ít nhất 5 năm.

- Mũi 1: Tiêm vaccine DPT-VGB-Hib (phòng bệnh bạch hầu-ho gà-uốn ván-viêm gan B-viêm phổi/viêm màng não mủ do hib) khi trẻ 2 tháng tuổi.

- Mũi 2: Tiêm vaccine DPT-VGB-Hib khi trẻ 3 tháng tuổi.

- Mũi 3: Tiêm vaccine DPT-VGB-Hib khi trẻ 4 tháng tuổi.  

- Mũi 4: vắc xin DPT (phòng bệnh bạch hầu-ho gà-uốn ván) khi trẻ 18 tháng tuổi.

Ngoài lịch tiêm chủng bắt buộc nêu trên, vaccine bạch hầu được khuyến cáo tiêm nhắc vào các độ tuổi từ 4-7 tuổi, từ 12-15 tuổi và sau đó tiêm nhắc mỗi 10 năm bằng các vaccine DTaP, Td, Tdap.

- Tiêm vaccine phòng bệnh Bạch hầu là một trong những biện pháp hiệu quả được Bộ Y tế triển khai tại 4 tỉnh Tây Nguyên: Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Nông.

- Tất cả các đối tượng từ 2 tháng tuổi trở lên tại 4 tỉnh này được tiêm vaccine có thành phần bạch hầu, cụ thể:

- Trẻ từ 2 tháng tuổi đến 18 tháng tuổi (sinh từ 10/1/2019 đến 10/5/2020): tiêm 1 mũi vaccine 5 trong 1.

- Trẻ từ 19 tháng tuổi đến 48 tháng tuổi (sinh từ 10/7/2016 đến 9/01/2019): tiêm 01 mũi vaccine DPT.

- Trẻ từ 49 tháng tuổi trở lên (sinh từ 9/7/2016 trở về trước) và người lớn: tiêm 2 mũi vaccine Td (mũi 2 cách mũi thứ nhất 1 tháng).

Triển khai chiến dịch tiêm chủng trên diện rộng

Để ngăn chặn bệnh bạch hầu, Bộ Y tế quyết định triển khai ngay chiến dịch tiêm dự phòng bạch hầu trên diện rộng, cho tất cả đối tượng từ 2 tháng tuổi trở lên. Trong đó, trẻ 2-4 tháng tuổi tiêm vaccine 5 trong 1; trẻ 18-22 tháng tuổi, trẻ 5-7 tuổi tiêm vaccine 3 trong 1 do Việt Nam sản xuất; người lớn tiêm vaccine Td (chứa thành phần uốn ván, bạch hầu).

Theo đó, chương trình sẽ triển khai tiêm cho trẻ 7 tuổi (học lớp 2, sinh từ 01/01/2013) tại 35 tỉnh, thành phố nguy cơ cao, trong thời gian quý 4/2020 và quý 01/2021, nhằm tăng tỷ lệ phòng bạch hầu, uốn ván trong cộng đồng. Tổng số trẻ tham gia chương trình này là trên 01 triệu cháu, bao gồm trên 260.000 cháu ở miền Bắc, gần 144.000 cháu ở miền Trung, gần 109.000 cháu ở Tây Nguyên và trên 494.000 cháu ở miền Nam. Việc tiêm ngừa sẽ được thực hiện tại trường học, cơ sở y tế thôn bản hoặc xã phường, mục tiêu là trên 90% trẻ trong nhóm này được tiêm chủng.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Long, Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế cũng yêu cầu triển khai ngay điều trị dự phòng với người có tiếp xúc mầm bệnh và những người trong khu vực có mầm bệnh. Ví dụ trong xã có người mắc, lập tức mọi người trong xã phải uống thuốc dự phòng - đây là cách an toàn, hiệu quả. Ngoài ra, cần khoanh vùng, dập dịch, thực hiện cách ly với tất cả những xã có người mắc (hạn chế ra vào và khi ra vào vùng dịch phải đeo khẩu trang, tránh tiếp xúc gần)… Đặc biệt, Cục Y tế dự phòng phải giám sát chặt chẽ, trong trường hợp cần thiết, báo cáo Thủ tướng về việc xuất cấp khẩu trang với các địa phương này.

Đồng thời, giao Bệnh viện Bạch Mai tiến hành đào tạo, tập huấn cho cán bộ 4 địa phương có dịch, phối hợp Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương để thực hiện. Giao Cục Quản lý Khám chữa bệnh thành lập ngay 4 tổ công tác điều trị vào “nằm vùng” ở 4 địa phương có dịch. Các tổ này tập hợp các chuyên gia về truyền nhiễm, hồi sức và các lĩnh vực điều trị khác, vừa “cầm tay chỉ việc”, vừa hướng dẫn, tập huấn, giúp cán bộ y tế ở đấy điều trị bệnh nhân. Song song với đó, sử dụng hệ thống khám chữa bệnh từ xa để hỗ trợ chuyên môn cho các địa phương. Đặc biệt, khởi động lại chương trình truy vết, xem lại toàn bộ yếu tố dịch tễ và cài ứng dụng BlueZone cho các khu vực này.

Tuyết Ngọc
Tiến tới đại hội đảng
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
36980155