Truy cập hiện tại

Đang có 95 khách và không thành viên đang online

Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của Đảng đã tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, bảo đảm cho Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Vì thế, vấn đề hàng đầu trong việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng hiện nay là nâng cao bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên và của toàn Đảng.

Bản lĩnh chính trị - nhân tố cơ bản tạo thành sức mạnh, uy tín của người cán bộ, đảng viên

Đối với mỗi con người, bản lĩnh là tố chất cần thiết quyết định sự vững vàng, tính kiên định, sự độc lập chủ động trong hành động trước mọi hoàn cảnh, nhất là trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống.

Bản lĩnh chính trị là phẩm chất chính trị tuyệt đối cần thiết đối với Đảng Cộng sản và cán bộ, đảng viên của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay thể hiện ở sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng - mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ... Bản lĩnh chính trị của Đảng còn được thể hiện trong hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; sự vững vàng, kiên định, không dao động trước mọi tình huống, sự quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi ích của Đảng và của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá chế độ ta của các thế lực thù địch, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Đảng ta là một Đảng cách mạng chân chính do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo. Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của cách mạng, trung thành với lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân. Bản lĩnh chính trị của Đảng đã được rèn luyện, vượt qua nhiều thử thách, nhiều tình huống khó khăn, phức tạp, có lúc như “ngàn cân treo sợi tóc” (thời kỳ năm 1946), những tình huống hiểm nghèo (thời kỳ năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, phe xã hội chủ nghĩa trên thế giới tan rã). Hàng vạn, hàng vạn chiến sĩ, cán bộ, đảng viên của Đảng nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng cách mạng nên đã chấp nhận anh dũng hy sinh trong các lao tù đế quốc, trên các chiến trường chống ngoại xâm, trên các mặt trận thầm lặng khác. Đảng ta xứng đáng, như Bác Hồ đã nói, là “đứa con nòi của dân tộc”, “là đạo đức, là văn minh”.

Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, trước những tác động không thuận của tình hình thế giới và trong nước, bản lĩnh chính trị của Đảng, đứng trước nhiều thách thức.

Trước hết là do những tác động tiêu cực, không thuận (bên cạnh tác động thuận) của những biến động phức tạp của tình hình thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô, sự tan rã của phe xã hội chủ nghĩa, sự thoái trào của cách mạng thế giới qua 25 năm vẫn còn tiếp tục tác động đến tư tưởng, niềm tin, lý tưởng của cán bộ, đảng viên ta. Sự tác động của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế đã ảnh hưởng đến nước ta. Khủng hoảng kinh tế, tài chính, khủng hoảng nợ công trên thế giới vẫn còn tác động đến kinh tế nước ta.

Thứ hai, âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, kết hợp gây bạo loạn hòng lật đổ chế độ chính trị nước ta của các thế lực thù địch. Chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để nhằm chuyển hóa chế độ chính trị, chuyển hóa Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị - xã hội trong nước, tác động đến niềm tin của nhân dân, chia rẽ Đảng và nhân dân.

Thứ ba, sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đây vừa là biểu hiện của sự giảm sút về bản lĩnh chính trị, vừa là sự tác động tiếp tục, thách thức đến bản lĩnh chính trị của Đảng. Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ tiếp tục diễn ra mà chưa có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn. Không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhạt chính trị, nhạt Đảng, nhạt Đoàn, nhạt chủ nghĩa. Thậm chí, không chỉ là những phần tử cơ hội chính trị mà ngay cả một số cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ lão thành cũng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, dao động về lý tưởng, “sám hối” chính trị, muốn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Thứ tư, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội của các cơ quan đảng và nhà nước; những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ; công tác tư tưởng lý luận; trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống “lợi ích nhóm”; trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phản biện; trong tổ chức, thực hiện các nghị quyết của Đảng.

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là những chủ trương lớn trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến lý tưởng, niềm tin, đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân ta. Nó kích thích chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, coi nhẹ lý tưởng chính trị, đạo đức cao quý, làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, coi nhẹ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của con người. Thông qua đó có thể làm xói mòn bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên, nếu công tác chỉ đạo, quản lý của chúng ta yếu kém, bất cập.

Những nhân tố khách quan và chủ quan, quốc tế và trong nước trên đây tác động đến bản lĩnh chính trị của Đảng, của cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng trong tình hình mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã khẳng định: “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”(1).

Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng để xây dựng, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên

Bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Nó phải qua giáo dục, học tập và rèn luyện trong thực tiễn. Giáo dục chính trị, tư tưởng là yếu tố quan trọng hàng đầu để tạo nền tảng chính trị cho cán bộ, đảng viên, từ đó tiếp tục bồi đắp, rèn luyện trong thực tiễn, trong cuộc sống.

Trong các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Cần đẩy mạnh và đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Cần đa dạng hóa các hình thức và phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng sao cho sát hợp với từng đối tượng, gắn với tình hình thực tiễn từng thời kỳ, từng ngành, lĩnh vực và địa phương, khắc phục tình trạng khuôn sáo, lý thuyết suông, phải gắn lý luận với thực tiễn, gắn nói và làm, nhận thức và hành động, gắn giáo dục chính trị, tư tưởng với đạo đức, lối sống, gắn cá nhân với tổ chức, qua đó nhằm củng cố, nâng cao nhận thức, niềm tin, lý tưởng, bản lĩnh, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nâng cao ý chí chiến đấu, thực sự vì nước, vì dân trong nhận thức và hành động, thắt chặt mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng yêu cầu “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào”(2).

Để nâng cao bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần tập trung vào một số nội dung sau đây:

Một là, giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học và cách mạng, nó trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho con người để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo nền tảng lý luận, bản lĩnh lý luận cho cán bộ, đảng viên để ứng xử đúng trong mọi tình huống, trong mọi nhiệm vụ công tác được phân công. Vì vậy cần kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin nghiên cứu những quy luật phổ biến nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, những quy luật của đấu tranh cách mạng, của xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nắm chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nắm cái chung, quy luật chung để có cơ sở nhận thức, xử lý, áp dụng đúng đắn vào cái riêng, cái cụ thể. V.I. Lê-nin đã từng nói, người nào không nắm được cái chung mà bắt tay ngay vào giải quyết cái riêng thì không tránh khỏi tình trạng lúng túng, mò mẫm, lầm lạc, mất phương hướng, thậm chí có khi dao động một cách tệ hại do thiếu bản lĩnh lý luận. Vì vậy Đảng ta khẳng định phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(3).

Trong những năm gần đây, nhất là từ sau khi Liên Xô sụp đổ, xuất hiện những biểu hiện xa rời, thậm chí phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ thích hợp với điều kiện phương Tây, thích hợp với văn minh cơ khí ở thế kỷ XIX, chứ không thích hợp với văn minh tin học ở thế kỷ XXI, không thích hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Có ý kiến đồng nhất chủ nghĩa Mác - Lê-nin với chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ. Gần đây có ý kiến đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cần phải phê phán những quan điểm sai trái trên đây.

Cần coi trọng và đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống các trường cao đẳng, đại học, các trường chính trị, các viện, học viện.... Cần đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học các môn lý luận chính trị, các môn học về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc giảng dạy lý luận chính trị cần gắn với tình hình thực tiễn thế giới và trong nước, gắn với đường lối, quan điểm của Đảng, chú trọng trang bị kỹ năng và phương pháp tư duy cho người học; xây dựng các tình huống trong giảng dạy lý luận chính trị, tăng cường đối thoại, hội thảo, seminar trong dạy học. Cần khắc phục những thiếu sót trong dạy học các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng thời gian qua, cần thực hiện tốt Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân để xây dựng bản lĩnh chính trị cho sinh viên ngay từ trên ghế nhà trường.

Hai là, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Tổng kết Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII “Về công tác lý luận”, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”, trong đó Bộ Chính trị đã khẳng định những thành tựu quan trọng về lý luận, như “đã bước đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ rõ “Công tác lý luận còn có những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn chung lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn”. Vì vậy, Nghị quyết yêu cầu phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về phát triển kinh tế tri thức, về hội nhập quốc tế, về phát triển văn hóa, xây dựng con người; về Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Đặc biệt cần quan tâm nghiên cứu những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau nổi lên qua tổng kết 30 năm đổi mới (1986 - 2016), như định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường; vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vai trò của kinh tế tư nhân; vấn đề mô hình và phương thức quản lý phát triển xã hội; vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế và chính trị; vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam; vấn đề động lực của đổi mới và phát triển ở Việt Nam trong thời kỳ mới... Đây là những vấn đề rất cơ bản trong đường lối đổi mới, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Không tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân. Đây cũng là những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở cho xây dựng lập trường chính trị, bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng, cơ sở cho sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ và chủ quan, nóng vội, cực đoan, đổi mới vô nguyên tắc.

Cần chủ động, tích cực và nâng cao hiệu quả đấu tranh tư tưởng, lý luận chống các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Một số người dao động về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, về con đường xã hội chủ nghĩa, muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ cho rằng “Hồ Chí Minh không phải là người vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin”, rằng “do kiên định quá lâu chủ nghĩa Mác - Lê-nin nên làm cho đất nước tụt hậu”, họ muốn quy mọi khuyết điểm, thiếu sót vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, họ muốn thay nền tảng tư tưởng của Đảng bằng chủ nghĩa dân tộc hoặc muốn loại bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Họ nói Đảng đã “lẫn lộn giữa mục đích và biện pháp”, xác định sai mục đích là “xây dựng chủ nghĩa chứ không phải xây dựng đất nước”; họ nói chế độ ta là một chế độ toàn trị (độc tài, mất dân chủ) và yêu cầu phải quay về “dân tộc và dân chủ”... Rất tiếc là những nhận thức sai trái, quan điểm lệch lạc đó lại được một số cán bộ, đảng viên phát tán rộng trên mạng in-tơ-nét và một số tài liệu in. Cần nhận thức đầy đủ tính chất nguy hại của những quan điểm đó và tổ chức phối hợp các lực lượng đấu tranh một cách chủ động, tích cực, hiệu quả, bằng nhiều kênh, nhiều con đường, kể cả thông qua hình thức đối thoại trực tiếp.

Ba là, tăng cường giáo dục nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là thực hành “Cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư”. Theo Người, đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng. Khi “cái gốc” bị lung lay thì bản lĩnh chính trị sẽ không còn được giữ vững. Có người vì chủ nghĩa cá nhân mà sẵn sàng từ bỏ lý tưởng, phản bội lại lợi ích của Đảng và Tổ quốc. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm của cách mạng, là một thứ “giặc nội xâm” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên không tách rời việc nâng cao đạo đức cách mạng, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong những năm đổi mới, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, sự xâm nhập của văn hóa phẩm độc hại cùng với những yếu kém, khuyết điểm của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội làm cho đạo đức xã hội có mặt bị xuống cấp. Tình hình đó đã tác động tiêu cực đến cán bộ, đảng viên, làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất đạo đức và lối sống như trong Văn kiện Đại hội XI đã nhận định. Suy thoái về đạo đức sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, làm xói mòn bản lĩnh chính trị. Vì vậy, việc nâng cao bản lĩnh chính trị không tách rời việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm, như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó.

Người cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giống như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nêu gương về đạo đức, kiên quyết chống lãng phí, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân; phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn, tự cường dân tộc, ý chí phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phải chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

Để hoàn thành trọng trách cao cả của cách mạng đòi hỏi mỗi đảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, mỗi cán bộ, đảng viên phải là những chiến sĩ xung kích trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, với đường lối, quan điểm của Đảng./.

-----------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66
(2), (3) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr. 255

Lê Hữu Nghĩa
GS, TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn: TCCS
Tiến tới đại hội đảng
Dua-nghi-quyet-vao-cuoc-song
Giải phóng miền Nam
Số lần xem các bài viết
37034244